Tên tuổi Cao Xuân Hạo gắn liền với bục giảng, với tiếng Việt và dịch thuật. Tôi chưa học ông giờ nào, nhưng rất nhiều lần được ngồi bên nhau bên cốc bia, cốc cà phê nói chuyện đời, chuyện ngôn ngữ. Và tôi học được ở ông rất nhiều điều trong cuộc sống, trong chuyện viết lách. Cách đây khoảng 10 năm, ông mơ ước báo chí có một mục “Viết và học tiếng Việt”, nhưng mơ ước cũng chỉ là... mơ ước. Nay, trên Báo Lao Động Cuối tuần, có hẳn mục “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, nhưng cũng là lúc ông không còn đủ sức để đóng góp.
Với ông, thiên tài chẳng qua là sự cố gắng. Tiếng Việt cũng phải cố gắng học mới giỏi được. Theo ông, muốn nắm vững ngôn ngữ nào thì ngoài việc cần mẫn học tập, phải thuộc nằm lòng ít nhất 100 bài văn mẫu làm vốn; nếu không thì chỉ bốc phét cho vui chứ chẳng làm nên cơm cháo gì. Ai cũng biết muốn có bản dịch hay, ngoài việc hiểu biết ngoại ngữ, còn phải giỏi tiếng Việt, nhưng không ít người chỉ có nói, chứ trên giấy trắng mực đen thì dịch rất ẩu.
Trong những lần nghe ông kể về chuyện ngôn ngữ, đã giúp cho tôi nhiều bài học thú vị. Ông kể, hồi năm 1959, một lưu học sinh người Bulgaria đưa ông xem và chữa giúp một bài tập hành văn có đề là “tả cảnh thu sang ở quê hương anh”, trong đó anh ta viết: “Chỉ tháng trước, những cây đã xanh, mà nay chúng đang vàng rực”. Ông lấy bút sửa lại: “Mới tháng trước, cây cối còn đang xanh, mà nay đã vàng rực”. Anh bạn người Bulgaria không đồng ý, đấm vào lưng ông và lật mấy trang trong sách ngữ pháp, tiếng Việt có, tiếng Anh có, tiếng Nga có, chỉ cho ông xem "đã" chỉ thì quá khứ, "đang" chỉ thì hiện tại, "sẽ" chỉ thì tương lai và cho rằng ông... chơi xỏ. Ông đánh cược với người bạn Bulgaria, nếu trong 100 người Việt Nam được anh chọn làm trọng tài có một người nào nói câu của ông sai, còn câu của anh ta đúng, thì ông sẽ đền anh ta bất cứ thứ gì anh ta muốn. Và anh ta đã đem câu ấy ra hỏi... 7 người. Cả 7 người đều nói câu của ông viết đúng. May quá! Tôi nhớ rất rõ nụ cười của ông khi thốt ra hai tiếng “May quá!”, và ông nói tiếp: “Nếu ngày nay, anh bạn người Bulgaria của tôi hỏi phải mấy sinh viên khoa ngữ văn ta, thì chắc tôi phải thua... !”.
Qua thời gian quen biết và được nhiều lần trò chuyện với ông, tôi thấy tinh thần tự học, ham học của ông ngời ngời như sao buổi sớm. Đặc biệt, ông là người có chủ kiến, tự quyết định lấy mọi việc, không theo đuôi ai, không phụ thuộc ai, ngay cả việc chạy xe máy trên đường. Một lần, đang nói chuyện ngon trớn, anh em rủ đi ăn trưa. Tôi đề nghị được chở, thì ông cười, nói: “Mình chở. Vu Gia thông cảm, xưa nay, mình không giao sinh mạng cho bất cứ ai”. Lúc đó, ông đã hơn 70 tuổi.
Tác phẩm dịch đã xuất bản: Người con gái viên đại úy (truyện, 1959); Chiến tranh và hòa bình (tiểu thuyết, 1962); Chuyện núi đồi và thảo nguyên (truyện ngắn, 1963); Trên những nẻo đường chiến tranh (tiểu thuyết, 1964); Truyện ngắn Goócki (1966); Con đường đau khổ (tiểu thuyết, 1973); Tội ác và trừng phạt (tiểu thuyết, 1983); Đèn không hắt bóng (tiểu thuyết, 1986); Papillon (1988); Khải hoàn môn (tiểu thuyết, 1988)... Năm 1985, ông được giải thưởng về dịch thuật của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm ngôn ngữ học đã xuất bản: Phonologie et linéarité. Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine (Paris, 1985.- Dịch ra tiếng Việt: Âm vị học và tuyến tính. Suy nghĩ về các định đề của âm vị học đương đại, 1999); Câu có trạng ngữ đứng đầu (1985): Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991); Câu trong tiếng Việt: Cấu trúc, Nghĩa và Công dụng (1992); Tiếng Việt. Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa (1998)... |
Bình luận (0)