Có lẽ, Dương Thiệu Tước là một trong những nhạc sĩ thuở bình minh tân nhạc có cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo khá khác biệt.
Xuất thân dòng dõi quý tộc
Dương Thiệu Tước sinh ngày 15-5-1915 ở làng Vân Đình, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) trong một gia đình nho học truyền thống. Ông nội ông là nhà nho Dương Khuê, tự Vân Trì, đỗ tiến sĩ năm 1868, làm quan đến Định Ninh Tổng Đốc, Thượng thư tham tán Nha Kinh Lược Bắc Kỳ, là bạn đồng khoa thân thiết với Yên Đỗ Nguyễn Khuyến. Dương Khuê nổi tiếng với những bài văn ca trù phần nhiều viết về những mối tình gặp gỡ các cô đào trong hoàn cảnh éo le. Những tác phẩm này được thu thập vào cuốn "Vân Trì thi lục". Ông trẻ (em ruột ông nội) Dương Lâm tự là Thu Nguyên, Mộng Thạch, hiệu là Quất Đình, Quất Tẩu đỗ Trạng nguyên năm 1878, làm quan đến Thượng thư Hiệp biện đại học sĩ, tước Thiếu Bảo. Tác phẩm của ông được ghi lại trong "Vân Đình thi văn tập". Cha thân sinh Dương Thiệu Tước là ông Dương Tự Nhu làm bố chính tỉnh Hưng Yên. Dương Thiệu Tước lại mê đàn từ bé. Bảy tuổi đã học đàn nguyệt rồi đàn tranh và cổ nhạc. Mười bốn tuổi đã học piano của giáo sư người Pháp tại Viễn Đông Âm nhạc Viện và học guitar cổ điển cùng các tiết tấu dancing. Và nghiệp cầm ca đã đưa ông đến việc cùng các bạn như Thẩm Oánh, Vũ Khánh, Nguyễn Thiện Tơ, Nguyễn Trần Dzư, Phạm Văn Nhường… lập ra nhóm âm nhạc Myosotis (Hoa lưu ly). Ông cùng nhóm đã cho xuất bản những nhạc phẩm đầu tiên của nhóm như "Đồi Oanh vàng", "Hoa tàn", "Phút vui xưa"… cùng những bản soạn cho guitar Hawaienne như "Joie d’aimer", "Son ven-ance", "Tondouxsourise" vào cuối năm 1938. Cũng trong năm ấy, vào tháng 9, "Myosotis" đã có buổi trình diễn trước đông đảo công chúng tại rạp Olenpia (nay là rạp Hồng Hà đối diện chợ Hàng Da - số 51 Đường Thành, Hà Nội) những nhạc phẩm của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước được thanh niên mến mộ, náo nức xin văn bản để tập đàn ca. Nhóm thường xuyên được Hội Ánh Sáng của Tự Lực Văn Đoàn mời biểu diễn.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước thời trẻ Ảnh: Tư Liệu
Gửi hồn dân tộc trên âm điệu phương Tây
Khi bắt đầu sáng tác, Dương Thiệu Tước có chủ trương soạn nhạc theo âm điệu Tây phương. Ông nghĩ nếu đã có nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam viết tác phẩm bằng tiếng Pháp thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng rất có thể viết được những bản nhạc có âm điệu phương Tây. Và cứ thế, từ ông đã tuôn trào ra những "Tâm hồn anh tìm em", "Một ngày mà thôi", "Ngọc Lan", "Bóng chiều xưa", "Ôi quê xưa"… chịu ảnh hưởng nhạc nhẹ cổ điển phương Tây. Nhưng dù có quan niệm như thế, Dương Thiệu Tước vẫn cho rằng khi ông đã là người Việt Nam thì những gì ông viết ra là đã mang hồn vía dân tộc Việt Nam rồi. Điều ấy cũng thể hiện rõ khi ông viết "Tiếng xưa", "Chiều" (phổ thơ Hồ Dzếnh) và vượt lên hơn cả là đã sử dụng rất tinh tường ca Huế vào "Đêm tàn bến Ngự".
Từ cảm xúc với nữ ca sĩ Minh Trang đẹp đến nao lòng, Dương Thiệu Tước đã thả hồn vào những luyến láy "rất Huế", những biến phách, những đảo phách dìu dặt của nhạc cung đình và lời ca như nhập với giai điệu: "Nam Bình sầu than, như nức nở khóc duyên bẽ bàng…" hay "Thuyền mơ trong khúc Nam ai - Đàn khuya trên sóng ngân dài…" man mác đượm buồn như bài thơ "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế" của Văn Cao.
Giống như Phạm Văn Ký, Phạm Duy Khiêm trong văn chương hay Nguyễn Văn Huyên trong nghiên cứu, Dương Thiệu Tước là nhạc sĩ viết ra những cảm xúc Việt bằng "ngữ pháp Tây" nhưng lòng trắc ẩn về một bản sắc dân tộc vẫn giúp cho ông biến những giáo huấn khô khan "Ơn nghĩa sinh thành" thành một bài ca hấp dẫn, biến những hồn nhiên thơ ngây thành những đồng dao đầy chất Việt như "Nhạc ngày xanh", "Dưới nắng hồng"…
Nhân nhắc đến Nguyễn Văn Huyên, điều không ngờ là cả hai ông đều đem lòng yêu một thiếu nữ Hà Nội kiều diễm là con Tổng đốc Vi Văn Định - bà Vi Kim Ngọc. Khi Nguyễn Văn Huyên còn học ở Pháp, Dương Thiệu Tước đã đem lòng yêu thiếu nữ này. Song duyên đời lại không cho hai người se lại. Khi Nguyễn Văn Huyên về nước và gặp duyên với nàng, Dương Thiệu Tước mới lấy bà Lương Thị Thuần. Nhưng mối tơ duyên thì còn vấn vương. Đó là cảm hứng để ông viết "Ngọc Lan".
Cái nhìn riêng về chiến tranh
Chiến tranh bùng nổ, Dương Thiệu Tước vẫn ở Hà Nội theo đuổi sự nghiệp sáng tác của mình. Ông từng khẳng định "Âm nhạc cải cách đã trỗi dậy và đã gieo vào tâm hồn ta những ý niệm tươi đẹp của một nền âm nhạc Việt Nam tương lai, cái ảnh hưởng mãnh liệt sâu xa của nó đan xen với mạch sống hằng ngày của mỗi người".
Sự khẳng định ấy dành cho cả những nhạc sĩ dấn thân vào cuộc trường kỳ kháng chiến với những thành tựu đáng ghi nhận. Dương Thiệu Tước có cái nhìn riêng của mình về chiến tranh qua "Ôi quê xưa": "Rồi một chiều thu - Tôi về chốn xưa - Nhìn cảnh làng quê - Vết tro tàn đìu hiu gió sương - Nhìn mái nhà xác xơ - Mơ chốn đây năm nào - Chiều chiều bao người hẹn nhau - Đến bên nhịp cầu…" Ông cứ cảm nhận cuộc đời tha thiết và sang trọng trong tình yêu.
Tính đến năm 1953, Nhà Xuất bản Tinh Hoa đã thống kê ra đến 41 ca khúc ông viết từ thuở bình minh tân nhạc Việt Nam đến thời điểm đó. Sau Hiệp định Genève, ông vào Sài Gòn. Ở đây, những ca khúc của ông vẫn tiếp tục được tái ấn hành và được Thái Thanh, Minh Trang và cô con gái Quỳnh Giao trình diễn nhiều năm tháng. Ông hướng về giáo dục âm nhạc là chủ yếu. Bởi vậy, sau ngày 30-4-1975, ông vẫn được trọng dụng để giảng dạy ở Nhạc viện TP HCM bằng một cuộc sống đạm bạc trong căn nhà có chái bếp lợp lá ở giữa con hẻm gần chùa Hành Thiên. Ông tạ thế ngày 1-8-1995, khi ấy ca khúc Dương Thiệu Tước đã được hát khắp nơi. Trong chương trình "Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam" hồi cuối Xuân 1994, "Ngọc Lan" đã vang lên qua giọng hát Thu Hà.
(*) Xem Báo Người Lao Động số thứ bảy từ ngày 26-8
Ông giáo già thanh thoát
Vào Sài Gòn những năm đất nước vừa thống nhất, có dịp cùng bạn ghé qua Nhạc viện TP HCM vốn xưa là Trường Quốc gia Âm nhạc - Kịch nghệ, đôi lần nhìn thấy một ông già dáng cao, tóc bạc đeo vai cây guitar bước đi lững thững thanh thoát. Bạn tôi cho biết đó là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Điều ấy đã khiến tôi nhớ lại thời ấu thơ được sống trong những bài hát thuở ban đầu tân nhạc Việt Nam mà nhớ nhất là khi anh chị tôi song ca "Bóng chiều xưa" của người nhạc sĩ tôi được kiến diện sau tới gần 30 năm nghe và thuộc nhạc của ông. Anh em CLB Guitar Phú Nhuận thì luôn gọi ông một cách kính cẩn là "thầy Tước" mặc dù người vợ đương ở cùng thầy, vốn là học trò của thầy, ít tuổi hơn họ nhiều.
Từ phố Hàng Bông nhà tôi, chiều chiều tản bộ ra hồ Gươm, tôi thường đi qua căn nhà 56 Hàng Gai nơi khi xưa ông mở hiệu đàn. Đi qua và luôn tưởng tượng thấy ông đang mỉm cười nhìn cuộc đời trong "Bóng chiều xưa". Đi qua và nhẩm hát: "Một chiều ái ân - Say hồn ta bao lần"…
Bình luận (0)