- “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương) giải thích: “Giẻ cùi tốt mã. Giẻ cùi (vốn chỉ được mỗi một ưu điểm là) tốt mã mà thôi. Hay dùng để nhắc mọi người là hãy chú trọng nhiều hơn tới thực chất, chứ đừng hoa mắt lên trước vẻ lòe loẹt bề ngoài”.
- “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Tốt mã giẻ cùi • ng. (Giẻ cùi là một loài chim có bộ lông đẹp và có đuôi dài) ý nói: Chỉ tốt ở bề ngoài thôi <> Đừng tin vào lời nói ngọt xớt của mụ ta, chẳng qua chỉ là tốt mã giẻ cùi mà thôi”.
- “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Vũ Dung - Vũ Thúy Anh - Vũ Quang Hào): “Giẻ cùi tốt mã [Tốt mã giẻ cùi] Gngh: Có vỏ mà nỏ có ruột. (giẻ cùi: còn gọi là phượng hoàng nam hay phượng hoàng đất, một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông sặc sỡ, tiếng hót không hay). Hình thức bên ngoài bảnh bao sáng sủa mà đầu óc tối tăm, rỗng tuếch, không ra gì, không làm được gì có ích. “Giẻ cùi tốt mã dài lông/Bên ngoài hào nhoáng bên trong ra gì” (Ca dao). Tham khảo: Nhận định như vậy có lẽ oan cho giẻ cùi vì loài chim này rất có ích, nó ăn toàn sâu bọ. (Đào Văn Tiến)”.
Giẻ cùi mỏ vàng Ảnh: INTERNET
Nhận xét của chúng tôi:
- Trong “Từ điển tục ngữ Việt”, Nguyễn Đức Dương chỉ mới diễn giải câu nói của dân gian (“Giẻ cùi tốt mã” = “Giẻ cùi (vốn chỉ được mỗi một ưu điểm là) tốt mã mà thôi”), chứ chưa giải thích nghĩa đen thành ngữ. Mặt khác, nghĩa của câu thành ngữ, tác giả cũng giảng không chính xác, vì cái ý khuyên nhủ “Hay dùng để nhắc mọi người là hãy chú trọng nhiều hơn tới thực chất, chứ đừng hoa mắt lên trước vẻ lòe loẹt bề ngoài”, mà Nguyễn Đức Dương đưa ra khiến người ta nghĩ đến câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, chứ không phải là “Tốt mã giẻ cùi”.
- GS Nguyễn Lân có giải thích nghĩa đen kỹ hơn, nhưng tại sao “Giẻ cùi là một loài chim có bộ lông đẹp và có đuôi dài” trong con mắt của dân gian, nó lại không được coi trọng (chỉ là “tốt bề ngoài thôi”) thì không thấy nhà biên soạn từ điển giải thích. Đặc biệt, khi GS Nguyễn Lân đưa ra ví dụ “Đừng tin vào lời nói ngọt xớt của mụ ta, chẳng qua chỉ là tốt mã giẻ cùi mà thôi”, thì mới thấy nhà biên soạn từ điển đã dùng sai (hoặc hiểu sai) hoàn toàn. Vì “lời nói ngọt xớt” không đáng tin của “mụ ta” khiến người ta nghĩ đến thành ngữ “Đầu môi chót lưỡi”, chứ không ai ví với vẻ đẹp hình thức của con chim giẻ cùi.
- Trong 3 cách giải thích, thì “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” của Nhóm Vũ Dung đáng ghi nhận hơn cả. Theo đó, sách này giải thích tương đối chính xác về nghĩa đen “một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông sặc sỡ, tiếng hót không hay” và nghĩa bóng “Hình thức bên ngoài bảnh bao sáng sủa mà đầu óc tối tăm, rỗng tuếch, không ra gì, không làm được gì có ích”.
Giống chim giẻ/dẻ cùi (tên khoa học: Urocissa erythroryncha), thuộc họ quạ, gồm nhiều loài, như: giẻ cùi mỏ to, giẻ cùi mỏ vàng, giẻ cùi vàng, giẻ cùi xanh, giẻ cùi bụng vàng. Chúng đều có chung một đặc điểm là sắc lông sặc sỡ; mắt, mỏ, chân vàng, nâu, hoặc đỏ. Riêng giẻ cùi mỏ vàng có đôi mắt nâu, mỏ vàng tươi, chân đỏ vàng cam, đuôi dài tới hơn 40 cm. Trung Quốc gọi loài chim này là chim thước xanh mỏ vàng (紅嘴藍鵲 - hồng chủy lam thước).
Khi bay, màu lông phớt xanh trên đôi cánh bóng mượt của giẻ cùi xòe rộng, cùng cái đuôi dài màu tím xanh viền trắng tha thướt, chấp chới tỏa sáng trong không trung rất đẹp mắt. Chim giẻ cùi, dân gian còn gọi là chim phướn, chim giải phướn (tên gọi theo cái đuôi dài, trông như cái giải phướn). Ngoài ra, nó còn được dân chơi chim cảnh lại đặt cho một số cái tên mỹ miều như: phượng hoàng đất, chim loan, loan phượng…
Mang vẻ đẹp tuyệt mỹ, nhưng loài chim giẻ cùi chỉ biết kêu với thứ âm thanh xoèn xoẹt như mài dao, hoặc rít lên như tiếng sáo chói tai, chứ không biết luyến láy hót ca như người ta tưởng. Giẻ cùi lại hay bắt chước tiếng kêu hoặc tiếng hót đơn giản của loài chim khác, với những âm thanh hỗn tạp.
Đặc biệt, giẻ cùi là loài chim rất tạp ăn. Ngoài một số loại hạt, chúng săn cả chuột, ếch nhái, côn trùng, thậm chí là đi phá tổ, cướp trứng và ăn thịt chim non của giống chim khác; chén cả loài côn trùng gớm ghiếc mà tất cả các loài chim khác phải “chào thua”, là bọ nẹt (bọ nẹt đã có dẻ cùi - tục ngữ). Nhưng trên hết, sự bẩn thỉu, ghê sợ đến tột cùng của loài chim mang vẻ đẹp thần tiên này trong mắt dân gian, là nó thích xơi phân chó: “Dẻ cùi tốt mã dài đuôi/ Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi” (ca dao).
Chưa thấy tài liệu khoa học nào nói đến thức ăn ưa thích của dẻ cùi là phân chó. Phải chăng, dẻ cùi tìm đến bãi phân chó, bởi đây chính là nơi thu hút ruồi muỗi, rồi ruồi muỗi lại thu hút ếch nhái đến kiếm ăn, và đây mới chính là đối tượng săn bắt của dẻ cùi? (Tương tự như loài chim chích chòe hay đợi đến lúc chập choạng tối là sà xuống các bãi phân trâu, phân lợn để chộp lũ nhái đang say sưa rình đớp côn trùng). Hay phân chó chỉ là lựa chọn cuối cùng của loài chim giẻ cùi ăn tạp, khi nguồn thức ăn khan hiếm?
Có lẽ chúng ta cũng không cần băn khoăn và cũng không nên đặt vấn đề “Nhận định như vậy có lẽ oan cho giẻ cùi vì loài chim này rất có ích, nó ăn toàn sâu bọ”. Bởi dân gian không cần biết đến điều đó. Trong con mắt của họ, giẻ cùi chỉ “tốt mã dài đuôi”, “hay ăn cứt chó”, nên bị khinh thường. Dân gian đặt nên thành ngữ để ám chỉ những kẻ có mã đẹp bề ngoài nhưng lòng dạ bẩn thỉu và bất tài. Cũng giống như cây thài lài ưa phân chó (Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó - tục ngữ), thì bất kể loài thực vật này có công dụng làm thuốc ra sao, dân gian vẫn quan niệm: “Thài lài mọc cạnh bờ sông/Tuy rằng xanh tốt nhưng/vẫn tông thài lài”!
Bình luận (0)