Ðứng tựa vào bao lơn sân đền lơ đãng nhìn xuống dòng Vu Gia, bỗng dưng mấy hòn núi lô nhô sau những rặng tre xanh phía bên kia dòng sông nhắc cho tôi nhớ đến quê nhà ấu thơ của nhà thơ Trinh Ðường. "Ấu thơ" là chữ của nhà thơ Trinh Ðường thường dùng lúc còn sinh thời, mỗi khi nghe nhà thơ kể chuyện thời hoa niên ở làng La Vân đâu tít tận mù khơi trí nhớ của ông.
Bên kia dòng Vu Gia cũng là làng quê tôi nhưng khác với quê nhà thơ Trinh Ðường, bởi làng La Vân của ông nằm dưới chân hòn Ngang bên bờ Bắc sông Thu Bồn, còn làng Phường Ðông của tôi nằm ven bờ Nam con sông Vu Gia. Cũng nhờ những chuyến đi về thăm quê cùng ông mà tôi thuộc lòng thêm những tên làng, tên đất từ thuở xa xưa. Và dường như bao giờ cũng vậy, mỗi khi có cơ hội về quê là nhà thơ Trinh Ðường lại thường rủ tôi làm bạn đường.
Ảnh: khánh phan
Một năm Tết đã cận kề mà nhà thơ Trinh Ðường dường như chẳng nhớ. Chiều tối rồi mà ông còn loanh quanh trên sân đền Trường An, mặc cho tài xế giục còi xe dưới chân núi. Ðến nỗi tôi phải nhắc ông: "Hình như ngày mai chú về Hà Nội". "Ừ, ừ... mai về chứ, mà cậu biết không...", vừa nói ông vừa đưa tay chỉ về bên kia sông nói tiếp: "Cả cái cánh đồng Trang Ðiền bao la kia, ruộng của nhà tớ có đến phân nửa đấy...".
Những câu chuyện đại loại như thế tôi đã nghe ông kể nhiều lần rồi. Ruộng đất của cha mẹ ông thời xưa cò bay thẳng cánh. Tuổi thơ ông đã biết ra đồng coi người làm gặt lúa. Thấy dân đi gặt nghèo khổ tội quá, ông giấu cha mẹ lấy lúa chia cho người ta. Lòng trắc ẩn, máu hào hiệp mẫu nghệ sĩ kiểu như nhà thơ Trinh Ðường đã có sẵn từ thời hoa niên đẹp đẽ ấy. Nào chỉ chừng đó, ông còn đi học võ để đánh Tây. Nhà thơ Trinh Ðường bảo: "Cái thằng người mình lạ lắm cậu ạ, cứ nói là phải làm, mà làm là phải bằng được mới thôi... Còn thơ tớ hồi ấy à, mình viết cả mấy tập rồi đấy nhưng rồi xé hết, đốt hết, vì nó... dở quá!".
Ngồi trên xe nghe nhà thơ Trinh Ðường chuyện trò, tôi chỉ biết vâng vâng dạ dạ, thi thoảng lắm mới chen vào một đôi câu. Quê nhà trong địa lý bên dòng sông Thu Bồn hình như chỉ là cái cớ để nhà thơ đi tìm cái quê nhà thăm thẳm của thời gian. Một thứ men say tâm hồn để có lúc ông bật lên, thốt thành thơ, đọc mà nghe như có vị nước mắt mằn mặn trong câu chữ: "Rồi tôi sẽ rời nơi đây/ Giao lại nơi đã ở/ Cả cái nhìn qua cửa/ Cả hơi ấm trên giường/ Chỉ mang theo lên đường/ Một bóng nôi trên biển/ Nơi lòng tôi lưu luyến/ Thêm nhiều lần cố hương".
Nhà thơ Vân Long đã viết về ông đại loại như thế này: Người ta đi tập kết mấy mươi năm trở về, không tướng tá thì cũng giám đốc này, giám đốc kia..., còn Trinh Ðường khi rời làng đi tập kết ra Bắc, lúc đi ông là một nhà thơ, mấy chục năm sau trở về ông cũng là một nhà thơ. Một đời ông chẳng quan tước gì ngoài máu thi sĩ nguyên vẹn từ trong ra ngoài. Trong tác phẩm "Chiều chiều" (hồi ký của Tô Hoài), đoạn viết về Trinh Ðường đã chứng minh cho cái phẩm chất thi sĩ cao đẹp của ông. Người ta thì ít nhiều gì sống ở đời cũng biết lượn gió mà đi, thậm chí có kẻ cúi rạp mình xuống, còn ông thì cứ cái hình hài cao lòng nhòng thẳng băng mà bước, vậy nên bất trắc là điều khó lường.
Hầu như ông chẳng để ý gì đến cái sự bất trắc đâu đó trên đường đời, hồn nhiên sống, hồn nhiên yêu, hồn nhiên luôn cả những khi rủi may của số phận gieo xuống đời mình. Ông đón nhận tất cả khổ đau và hạnh phúc ở đời như sự mặc định của định mệnh. Chỉ riêng cõi thơ với ông là cõi thanh khí, cõi thiêng liêng. Vì thế đọc đâu đó một thứ thơ gượng gạo, đồng bóng là ông chê không tiếc lời; ngược lại, gặp một bài tâm đắc là ông khen bốc trời, thậm chí có khi còn tìm cho ra địa chỉ của tác giả để viết thư, để kết bạn tâm tình.
Tuổi đã về già rồi, nhà thơ còn gánh vác cái công việc bao đồng "Một thế kỷ thơ Việt". Có lẽ đây là quãng thời gian ông đi lại nhiều nhất. Từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ miền núi đến miền biển..., đến nỗi mới vừa trải qua một trận ốm đau chí tử, đã nghe ông rời Hà Nội vào Lâm Ðồng, rồi lặn lội tới miền Tây. Như nhà thơ nói, ông đi để "Ðón gió hỏi nhà, nhờ mây chỉ lối, tôi đã đi tìm thơ qua các tàng thư và sông núi, đã đãi cát tìm vàng dọc theo dòng sông thế kỷ...". Ði tìm thơ kiểu như thi sĩ Trinh Ðường - một ông lão đã quá "bát thập" rồi, hỏi trên đời này được mấy ai như thế.
Vậy mà khi về đến quê rong chơi, nhà thơ trút cái "gánh nợ" đó đi đâu tưởng không còn để lại dấu vết. Tôi chỉ còn nghe thấy ông hả hê kể không hết chuyện đời xửa đời xưa Duy Mỹ - Duy Xuyên quê ông. Những ngày cận kề Tết năm đó, nhờ chiếc ôtô cũ kỹ của một anh bạn đang làm chủ tịch mặt trận huyện cho mượn, tôi và ông thỏa sức... du xuân! Rời khỏi đền Trường An lúc trời hoàng hôn, nhà thơ Trinh Ðường còn cù rủ: "Mình làm một vòng Hội An ăn Tết sớm rồi hãy ra Ðà Nẵng". Tất nhiên là tôi "chấp hành" triệt để.
Ði với ông nhiều lần, tôi có kinh nghiệm về sự ngẫu hứng đột ngột xuất hiện ở ông. Cái sự "quên" và "ngẫu hứng" bất ngờ của nhà thơ là cả những giai thoại ly kỳ. Có thể một sớm mai nào đó, ông rời nhà với lý do đi ăn sáng, vậy rồi mây dong gió ruổi thế nào ông đi tuốt tận Huế hay tận những đâu đâu, cho đến khi ông điện thoại về nhà mới biết cái lý do những nơi ông tới. Tôi ngờ rằng nếu không vì Tết rượt đuổi sau lưng, có thể ông lại không chỉ đòi đến Hội An mà còn là một nơi nào đó có trời mới biết được!
Thế đó, một chặng đường xuân với nhà thơ Trinh Ðường năm ấy, để rồi từ sau cái Tết đó, ông đi thẳng một mạch vào hư vô, vào thế giới "Những người muôn năm cũ". Tôi còn nhớ cái Tết sau đó, Tết năm Nhâm Ngọ, nhà văn Phạm Phát và anh Nguyễn Ðình An - những người bạn vong niên của nhà thơ Trinh Ðường - rủ tôi về thăm làng La Vân quê ông. Nhưng lần này không phải là một chuyến du xuân mà là đi viếng mộ thi sĩ. Ðứng nhìn anh Phạm Phát và anh Nguyễn Ðình An cắm hoa và rót rượu lên mộ nhà thơ Trinh Ðường cúng, tôi ngộ ra cái ý niệm "nhân - quả" chẳng hư vô một chút nào. Nghĩa là anh gieo vào cuộc đời này cái Nhân đẹp đẽ nhường nào thì anh sẽ nhận về những Quả đẹp như thế ấy!
Bình luận (0)