Nếu nói văn hóa là "quyền lực mềm" của một quốc gia thì du lịch đóng vai trò quan trọng để đẩy mạnh và phát huy quyền lực ấy một cách hữu hiệu.
Nâng tầm du lịch di sản
Theo ông Nguyễn Trùng Khánh, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch), Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phong phú và đa dạng. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử với 54 dân tộc mang bản sắc văn hóa đậm đà.
Du khách trải nghiệm nghề làm gốm truyền thống ở Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương .Ảnh: THÁI PHƯƠNG
Hiện nay, Việt Nam có 8 di tích lịch sử - văn hóa và thắng cảnh được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, trong đó có 5 di sản văn hóa, 2 di sản thiên nhiên và 1 di sản hỗn hợp thiên nhiên - văn hóa; 12 di sản văn hóa phi vật thể và 4 di sản tư liệu. Các di sản thế giới được UNESCO công nhận đã thay đổi diện mạo ngành du lịch của địa phương và nâng tầm vị thế cho du lịch di sản của Việt Nam trên bản đồ du lịch của thế giới.
Bên cạnh các di sản văn hóa được công nhận ở cấp độ toàn cầu, Việt Nam cũng sở hữu một hệ thống đồ sộ các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh ở cấp độ quốc gia hoặc địa phương trải dài khắp đất nước. Hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, của các dân tộc; các di sản văn hóa - nghệ thuật, văn nghệ dân gian, các bảo tàng lưu giữ những di sản văn hóa dân tộc... Đây là những tài nguyên du lịch hết sức đặc sắc, mang tính đặc trưng văn hóa của Việt Nam, là nguồn lực quan trọng, tạo thế mạnh và sự khác biệt của du lịch Việt Nam.
Trong giai đoạn 2015 - 2019 trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, du lịch Việt Nam đã đạt được những dấu mốc ấn tượng với mức tăng trưởng trung bình về lượt khách đạt 22,7%/năm và doanh thu đạt 20,7%/năm. Riêng năm 2019, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt, tăng 16% so với năm 2018. Lượng khách du lịch nội địa đạt 85 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch đạt 755.000 tỉ đồng, đóng góp 9,2% vào GDP của cả nước.
Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch nhấn mạnh du lịch văn hóa đã khẳng định vai trò quyết định trong việc tạo nên kết quả ấn tượng này. Các di sản văn hóa là giá trị cốt lõi để phát triển du lịch đặc trưng ở các vùng du lịch của Việt Nam. Các sản phẩm du lịch văn hóa nổi bật và hấp dẫn du khách trong thời gian qua như du lịch tham quan di sản, nghiên cứu văn hóa lịch sử thông qua di sản, các bảo tàng sống và các bảo tàng trưng bày, tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa cộng đồng du lịch lễ hội, du lịch văn hóa ẩm thực, du lịch tâm linh... Nhiều sản phẩm như tham quan di sản văn hóa thế giới cố đô Huế, phố cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An; tham gia các lễ hội truyền thống và đương đại như lễ hội chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội Bà Chúa Xứ, Festival Huế... đã nhận được sự quan tâm lớn của du khách và trở thành những sản phẩm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn. Tham quan di sản văn hóa tại Việt Nam là hoạt động được khách du lịch quốc tế ưa thích thứ 2, chỉ sau nghỉ dưỡng tắm biển. Di sản văn hóa là nền tảng hình thành tài nguyên du lịch, tạo ra các sản phẩm thu hút khách du lịch.
Phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa
Tuy nhiên, trong dòng chảy phát triển ấy, chính sự tăng trưởng và phát triển du lịch nhanh chóng đã đặt ra những thách thức không nhỏ trong việc bảo đảm quản lý di sản văn hóa một cách hiệu quả, nâng cao giá trị của di sản văn hóa cũng như thúc đẩy phát triển du lịch bền vững. Nhiều giá trị di sản văn hóa bị thương mại hóa quá mức, làm suy giảm giá trị văn hóa và truyền thống, phai nhạt bản sắc. Nhiều nét văn hóa truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán địa phương bị phá vỡ, biến đổi, sự đồng hóa văn hóa ngoại lai, những mâu thuẫn về chia sẻ lợi ích...
Ông Nguyễn Trùng Khánh nhấn mạnh trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi cách mạng công nghệ 4.0 đang rất phát triển, du lịch sáng tạo trên nền tảng văn hóa được xem như một giải pháp, hướng đi hữu hiệu để vượt qua thách thức. Du lịch sáng tạo mang đến nhiều hoạt động tương tác cho khách du lịch với văn hóa bản địa hơn, những hoạt động mang tính giáo dục, cảm xúc, trải nghiệm nhiều hơn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã phát triển du lịch sáng tạo theo cách riêng để phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa trở thành những sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao.
"Chúng ta có thể thấy điển hình gần gũi là Hàn Quốc. Nước này đã xây dựng một chiến lược về du lịch văn hóa, trong đó đề cập du lịch sáng tạo như một hướng đi trọng tâm. Du lịch sáng tạo ở Hàn Quốc tập trung vào khai thác giá trị văn hóa là "Làn sóng Hàn Quốc" (Hallyu Wave). Theo đó, các trào lưu về nhạc trẻ Hàn, phim truyền hình Hàn, điện ảnh, trò chơi điện tử, hoạt hình... được khai thác như là những tài nguyên du lịch hấp dẫn để thu hút người hâm mộ, tạo dựng sự kết nối với đất nước Hàn Quốc và từ đó có mong muốn tìm hiểu thêm về văn hóa truyền thống, lịch sử, con người của quốc gia này qua những chuyến du lịch" - ông Khánh nói.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 26-11
Tạo sự hồi phục và bứt phá
Với mục tiêu đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, Việt Nam sẽ là quốc gia du lịch, nằm trong danh sách các nước có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Đặc biệt, ngay trong thời gian tới, để phục hồi và phát triển du lịch vượt qua khủng hoảng nặng nề, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, ngành du lịch và văn hóa Việt Nam sẽ có nhiều việc, nhiều giải pháp cần làm.
"Nhưng có thể chắc chắn một điều, phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển du lịch sẽ có vai trò to lớn, tạo ra chiều sâu chất lượng và sự hồi phục, bứt phá cho du lịch Việt Nam" - ông Nguyễn Trùng Khánh khẳng định.
Bình luận (0)