Đây là những phát hiện trong nghiên cứu do Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Công ty Phân tích thời gian thực (RTA) và Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và Nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) phối hợp thực hiện, được chia sẻ tại Tọa đàm chuyên đề "Rà soát việc công khai thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện và bảng giá đất cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2023" vào sáng ngày 12-3 ở Hà Nội.
Phát biểu tại tọa đàm, bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, chia sẻ: "Việc công khai minh bạch thông tin đất đai là rất quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro về khiếu nại và xung đột liên quan đến đất đai. Chúng tôi tin tưởng rằng đánh giá thường niên này sẽ cung cấp cho lãnh đạo chính quyền địa phương một công cụ để theo dõi việc thực thi luật pháp liên quan đến công khai thông tin đất đai cho công chúng của mình. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Luật Đất đai 2024 sẽ có hiệu lực từ tháng 1 năm sau."
Việc công khai thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và bảng giá đất trên cổng thông tin điện tử của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện có cải thiện đáng kể sau ba vòng đánh giá
Về việc công khai bảng giá đất cấp tỉnh, tính đến ngày 6-10-2023, 73% tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã đăng tải công khai bảng giá đất giai đoạn 2020-2024 trên cổng thông tin điện tử của địa phương, tăng 8,1% so với kết quả rà soát năm 2022 và tăng 31,1% so với kết quả rà soát năm 2021.
Về việc công khai thông tin quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, tính đến hết ngày 6-10-2023, trong tổng số 705 UBND cấp huyện trên toàn quốc, 65,4% đã công khai quy hoạch sử dụng đất cấp huyện thời kỳ 2021-2030, tăng 16,5% so với năm 2022. Về tính đầy đủ, trong số các UBND cấp huyện đã công khai thông tin, 54,2% đã đăng tải đầy đủ 3 văn bản bao gồm quyết định phê duyệt, báo cáo thuyết minh tổng hợp và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
Về việc công khai kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện, tính đến ngày 6-10-2023, trong số 705 UBND cấp huyện, có 65,2% đã thực hiện công khai kế hoạch sử dụng đất cấp huyện năm 2023 trên cổng thông tin điện tử của mình, tăng 17,3% so với năm 2021 và tăng 10% so với năm 2022. Trong số này chỉ có 22,8% ban hành kế hoạch sử dụng đất đúng thời hạn và chỉ có 7% đăng tải thông tin đúng thời hạn.
Nhiều cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin của người dân
Tính đến cuối năm 2023, 23,7% số cơ quan nhận được yêu cầu đã cung cấp thông tin, 1,1% từ chối, 5,3% có phản hồi khác nhưng không cung cấp thông tin và 67,9% không phản hồi. Kết quả này cho thấy tỉ lệ các cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin kế hoạch sử dụng đất cấp huyện của người dân vẫn ở mức cao. Đặc biệt cần lưu ý, có 11 trong số 561 thư yêu cầu đã được bưu cục trả lại cho người gửi với lý do nhân viên bảo vệ của 11 UBND cấp huyện từ chối nhận thư vì không có tên người nhận. Trong khi đó, các nghiên cứu viên đều đề tên người nhận là Văn phòng HĐND-UBND huyện căn cứ theo Điểm g, Khoản 2 Điều 9 Luật Tiếp cận thông tin.
Để thúc đẩy việc công khai thông tin đất đai của các cơ quan nhà nước, Nhóm nghiên cứu tiếp tục khuyến nghị các cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh và cấp huyện cần triển khai thực hiện đầy đủ việc công khai thông tin đất đai trên môi trường trực tuyến bên cạnh việc cung cấp thông tin trực tiếp tại cơ quan.
Thay mặt Nhóm nghiên cứu, ông Lê Đặng Trung, Giám đốc TRA, chia sẻ: "Chúng tôi mong rằng Chính phủ sẽ sớm bổ sung thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân vào bộ thủ tục hành chính hiện hành của tất cả các ngành và lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đất đai, và có văn bản hướng dẫn cụ thể để cải thiện hơn nữa việc công khai thông tin".
Nghiên cứu vòng 3 được thực hiện từ tháng 10-2023 đến tháng 2-2024 thông qua việc rà soát cổng thông tin điện tử chính thức của 63 tỉnh, thành phố và 705 quận, huyện, thị xã trên toàn quốc. Nhóm nghiên cứu cũng gửi thư tới 561 văn phòng UBND cấp huyện để yêu cầu cung cấp thông tin kế hoạch sử dụng đất năm 2023.
Mức độ công khai thông tin đất đai của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện được đánh giá dựa trên 5 tiêu chí bao gồm: Công khai thông tin; Khả năng tìm kiếm thông tin; Tính kịp thời của thông tin; Tính đầy đủ của thông tin (đối với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và kế hoạch sử dụng đất cấp huyện); và Khả năng sử dụng thông tin (dễ đọc, dễ hiểu và đọc được bằng các phần mềm thông dụng).
Bình luận (0)