Ngày 21-11, Báo Người Lao Động tổ chức talkshow với chủ đề: "Sự nguy hiểm của viêm màng não (VMN): Phát hiện và điều trị ra sao?". Đây là một trong những bệnh nhiễm khuẩn cấp tính nguy hiểm, diễn tiến rất nhanh, nguy cơ tử vong chỉ trong vài giờ nếu không được phát hiện, can thiệp kịp thời.
Lây lan trong môi trường đông đúc
PGS-TS-BS Nguyễn Thị Cẩm Hường, Trưởng Khoa Nhiễm C-Bệnh viện Bệnh nhiệt đới (TP HCM), cho biết VMN là một bệnh lý nhiễm trùng nghiêm trọng ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, gây viêm não, thậm chí viêm tủy, nhiều biến chứng. Đặc biệt nếu có viêm não, tổn thương sẽ lan rộng vào nhu mô não sẽ gây rối loạn thần kinh khi vùng não bị viêm, tổn thương. VMN xảy ra quanh năm nhưng thường gia tăng vào thời điểm giao mùa, đặc biệt tại những môi trường tập thể như nhà trẻ, trường học, ký túc xá - nơi nguy cơ lây nhiễm cao.
Các tác nhân gây bệnh rất đa dạng: Virus (thường gây viêm não), vi khuẩn, nấm, lao hoặc ký sinh trùng (thường gây VMN). Bệnh có thể xảy ra ở cả người lớn và trẻ nhỏ. VMN ở người lớn nguyên nhân đa dạng và nguy cơ chẩn đoán nhầm. Bệnh viện Bệnh nhiệt đới tiếp nhận rất nhiều ca bệnh. Đối tượng bệnh nhân rất đa dạng như người có bệnh lý nền tạo đường vào cho vi khuẩn. Ví dụ như viêm tai giữa hoặc di chứng sau chấn thương sọ não (gây rò dịch não tủy), tạo cửa ngõ cho vi khuẩn xâm nhập màng não. Người có cơ địa suy giảm miễn dịch dễ mắc các bệnh viêm não do nấm hoặc ký sinh trùng; nhiễm ký sinh trùng qua ăn uống (gây VMN do ký sinh trùng).
Các biểu hiện sẽ xuất hiện gồm: Sốt đi trước, có thể sốt nhẹ hoặc sốt cao, đau đầu ngày càng tăng, không giảm sau khi đã hạ sốt, tiếp theo là biểu hiện của thần kinh, rối loạn tri giác từ nhẹ đến nặng, cứng cổ, nôn ói, thậm chí là yếu liệt, ức chế hô hấp tuần hoàn. Nhiều bệnh nhân điều trị tại nhà, trong vòng 2-3 ngày đầu xuất hiện rối loạn tri giác nên đến bệnh viện ngay, được điều trị kịp thời. Một số bệnh nhân khác cố gắng tự điều trị, duy trì đến 2-3 tuần, lúc này bệnh đã diễn biến xấu. "Chủ quan chính là sai lầm lớn nhất khiến việc chẩn đoán bệnh trễ và di chứng lâu dài, thậm chí có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Ngoài ra, những người tham gia giết mổ, buôn bán thịt heo, ăn lòng heo tái hoặc có tiếp xúc vết thương, lây qua hô hấp khi chăn nuôi có thể bị lây nhiễm" - BS Hường cảnh báo.
BSCK2 Nguyễn Minh Tiến, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Thành phố, cho biết VMN ở trẻ nhỏ khó nhận biết hơn người lớn. "Dấu hiệu nhận biết là trẻ li bì khó đánh thức, bỏ ăn, bỏ bú, co giật. Nhóm nhỏ hơn, trẻ có thể chỉ quấy khóc hoặc ho. Nhiều khi bác sĩ điều trị ho nhưng trẻ sốt tới sốt lui, chụp não tủy mới biết VMN" - BS Tiến lưu ý.

Các bác sĩ chia sẻ tại chương trình. Ảnh: DUY PHÚ
Nhận diện tác nhân
Theo các bác sĩ, bệnh VMN chia thành hai loại chính dựa trên tốc độ phát bệnh: Cấp tính (xảy ra nhanh) và bán cấp, mạn tính (kéo dài, âm thầm). VMN cấp tính: Dạng này thường do vius hoặc vi khuẩn gây ra và bùng phát mạnh mẽ trong vòng một tuần. Bệnh nhân thường sốt cao, đau đầu dữ dội và có thể nhanh chóng bị rối loạn ý thức hoặc co giật. Do virus: Thường tấn công não bộ (gây viêm não) dẫn đến rối loạn tri giác và yếu liệt. Do vi khuẩn: Chủ yếu tấn công màng não (gây VMN) khiến bệnh nhân đau đầu nhiều và cổ bị cứng rõ rệt. Để xác định chính xác tác nhân, bác sĩ cần tiến hành các xét nghiệm chuyên sâu như chọc dịch não tủy và chụp não. Với VMN mạn tính, dạng này thường do các tác nhân ít gặp hơn như nấm, lao hoặc ký sinh trùng. Bệnh tiến triển chậm với triệu chứng sốt và đau đầu kéo dài dai dẳng. "Việc xác định đúng tác nhân gây bệnh là bước then chốt để có phác đồ điều trị đặc hiệu, giúp cải thiện tiên lượng cho người bệnh" - BS Hường nêu rõ.
Điều trị VMN phải luôn nhắm trúng tác nhân gây bệnh (virus, vi khuẩn, nấm, lao) nhưng việc điều trị lại gặp nhiều khó khăn. Đối với VMN do virus, thách thức lớn nhất là thiếu thuốc đặc trị (chủ yếu chỉ có Acyclovir cho nhóm virus Herpes). Việc chẩn đoán virus cũng hạn chế khiến bác sĩ phải tập trung vào chữa triệu chứng và hồi sức cấp cứu. Ngược lại, VMN do vi khuẩn được điều trị bằng kháng sinh liều cao, dù chỉ khoảng 1/3 trường hợp tìm được vi khuẩn chính xác. Quá trình này cần dùng kháng sinh liên tục. Bệnh nhân có thể có di chứng lâu dài, nhất là những bệnh nhân bị hôn mê, việc phục hồi chức năng rất là lâu. Đối với các tác nhân âm thầm hơn như lao, nấm, ký sinh trùng, bệnh nhân cần tuân thủ các phác đồ điều trị kéo dài, 8 tháng cho lao màng não và có thể lên tới 1 năm cho VMN do nấm.
Theo bác sĩ Tiến, ở trẻ em biểu hiện khác người lớn, đa số do vi khuẩn. 3 tác nhân phổ biến là do các vi khuẩn não mô cầu, phế cầu, herpes simplex (HSV - 2). "Có bệnh nhi 4 tuổi đến bệnh viện trong tình trạng sốt co giật. Em bé bắt đầu xuất huyết kết mạc, ban lan toàn thân. Chúng ta không thể chủ quan là bé bị té. Đó là dấu hiệu viêm não mô cầu. Nhóm viêm tai giữa rồi viêm phổi, viêm não mô cầu. Nhóm herpes simplex (HSV - 2) có chích ngừa, ít tái phát. Nhóm trẻ càng nhỏ thì diễn tiến càng nặng" - BS Tiến dẫn chứng.
Lưu ý đáng nhớ
Bác sĩ Tiến cảnh báo VMN ở trẻ em nếu điều trị trễ thì có những di chứng về sau như rối loạn vận động, liệt chi, thính giác, thị giác, động kinh, đi lại khó... Việc điều trị trễ cơ hội phục hồi, hòa nhập lại rất khó khăn. Nếu phát hiện, điều trị sớm, phục hồi đến 70%-90%. Trẻ nhỏ nguy cơ cao hơn và di chứng nặng và điều trị khó khăn.
Đối với người lớn, theo bác sĩ Hường, việc phòng ngừa VMN không chỉ dựa vào vắc-xin mà còn phụ thuộc vào việc kiểm soát cơ địa, bệnh nền và yếu tố tiếp xúc. Mặc dù vai trò của tiêm chủng ở người lớn không rõ ràng như ở trẻ em, các chuyên gia vẫn khuyến cáo sử dụng một số loại vắc-xin cho nhóm đối tượng cụ thể. Vắc-xin cúm và não mô cầu giúp phòng ngừa các bệnh cảnh có thể dẫn đến VMN nặng. Vắc-xin phế cầu đặc biệt cần thiết cho người trên 60 tuổi, người có bệnh nền (như đái tháo đường). Nhóm người già và người có bệnh nền là cơ địa dễ bị tổn thương, cần được ưu tiên bảo vệ.
Bác sĩ Tiến lưu ý trẻ em thuận lợi hơn người lớn, có đầy đủ kháng sinh nhưng phải sử dụng cẩn trọng vì kháng thuốc. Nhóm dưới 12 tháng là thách thức với y khoa. Em bé có thể sốc nhiễm trùng, phải hỗ trợ cấp cứu, chống phù não... "Một số trường hợp biến chứng như có mủ hay điều trị hoài bé vẫn sốt, phải nhờ can thiệp ngoại khoa, dẫn lưu dịch. Điều trị ở trẻ em phải phối hợp đa chuyên khoa. Sau đó, phải có vật lý trị liệu. Nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời sẽ không để lại di chứng.
Chuyên gia lưu ý "3 điều sạch"
Với trẻ em, tiêm vắc-xin là biện pháp hiệu quả nhưng không quyết định. Biện pháp phòng ngừa phổ thông là 3 sạch: Ở sạch (môi trường thông thoáng, sạch sẽ); ăn sạch (nấu chín thức ăn, uống chín, rửa tay trước khi ăn, phụ huynh chế biến tay phải sạch); chơi sạch (đồ chơi phải được vệ sinh). Tăng sức đề kháng cho trẻ, dinh dưỡng hợp lý. Trẻ lớn phải được nghỉ ngơi, sinh hoạt, học tập đều độ. Trẻ dưới 36 tháng có uống vitamin A, vitamin này không chỉ sáng mắt mà còn tăng cường hô hấp, trẻ được bảo vệ. Trẻ dưới 12 tháng phải được giữ ấm: Mỏ ác, mông và lòng bàn chân. Nếu 3 chỗ này lạnh trẻ sẽ bị "sụt sịt". Phụ huynh nên tăng cường phòng ngừa phổ thông. Tránh chỗ đông người để hạn chế lây bệnh. Con bị bệnh phải phát hiện sớm. Tuân thủ các chương trình tiêm chuẩn quốc gia và tiêm thêm các mũi tự nguyện để bảo vệ trẻ.
6 ca nhiễm thì 1 tử vong
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xếp VMN vào nhóm bệnh nguy hiểm hàng đầu với hơn 2,5 triệu ca nhiễm và khoảng 240.000 ca tử vong mỗi năm. VMN mô cầu đặc biệt nguy hiểm, cứ 6 người nhiễm thì 1 người tử vong, nên bệnh này còn được gọi là "tử thần 24 giờ" vì có thể cướp mạng sống chỉ trong một ngày sau khởi phát.

Bệnh nhân viêm màng não điều trị tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP HCM. (Ảnh: Bệnh viện cung cấp)
Tại Việt Nam, tỉ lệ mắc bệnh khoảng 2,3/100.000 dân, là một trong 6 bệnh truyền nhiễm có tỉ lệ tử vong cao nhất. Bệnh tiến triển nhanh, 50%-70% trẻ nhập viện có nguy cơ tử vong và khoảng 20% trẻ sống sót vẫn mang di chứng nặng như bại não, chậm phát triển, suy thận hay tổn thương gan, chi. Đáng chú ý, từ đầu năm đến ngày 21-9-2025, khu vực phía Nam ghi nhận 27 ca mắc, trong đó TP HCM có 12 ca, cho thấy bệnh vẫn hiện diện và gây hậu quả nghiêm trọng.
Bình luận (0)