Loại chủ đầu tư ra khỏi Hội đồng Đền bù để dễ bề thao túng; chi hàng tỉ đồng không qua đấu thầu; khi khởi động dự án, huyện Thủ Thừa-Long An chủ động cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cán bộ, người nhà cán bộ để được nhận tiền đền bù...
Đây là những phát hiện mới trong hàng loạt sai phạm tại dự án KCN xử lý rác TPHCM-Long An mà trước đây Báo NLĐ đã từng đề cập.
Dự án Khu Công nghiệp Xử lý rác TPHCM - Long An đến nay vẫn là bãi đất hoang
Loại chủ đầu tư ra khỏi Hội đồng Đền bù
Xuất phát từ nhu cầu bức thiết xử lý rác thải tập trung, năm 2002, UBND TPHCM xúc tiến dự án KCN xử lý rác tại xã Tân Lập, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An với quy mô 1.760 ha do Sở Tài nguyên-Môi trường (TN-MT) TPHCM làm chủ đầu tư.
Tuy là chủ đầu tư của dự án nhưng ngay từ đầu Sở TN-MT TPHCM đã bị loại ra khỏi Hội đồng Đền bù - Giải phóng mặt bằng (gọi tắt là HĐĐB).
Việc này được thể hiện tại Quyết định số 11/QĐ-UB ngày 6-1-2004 của UBND huyện Thủ Thừa về việc thành lập HĐĐB, không có tên chủ đầu tư làm thành viên theo quy định.
Ngay cả khi phương án đền bù, giải tỏa được phê duyệt và triển khai thực hiện, chủ đầu tư cũng không được UBND huyện Thủ Thừa bổ sung làm thành viên. Không có chủ đầu tư là thành viên nên HĐĐB tự tung tự tác trong việc đền bù, gây thất thoát lớn.
Chẳng hạn, đất cấp cho các tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước chưa có quyết định thu hồi nhưng khi thực hiện dự án thì đất này do cá nhân, hộ gia đình sử dụng để được nhận tiền đền bù.
Theo quy định lúc bấy giờ, dạng đất này không thuộc diện bồi thường khi thu hồi đất nhưng HĐĐB huyện Thủ Thừa đã cố tình làm ngược lại, gây thất thoát lớn cho ngân sách Nhà nước.
Tổng diện tích thuộc diện này lên đến 2,3 triệu mét vuông, có tới 201 hộ gia đình, cá nhân được nhận. Tổng số tiền chi trái quy định ở dạng này lên đến 20,8 tỉ đồng.
Đối với đất sử dụng không ổn định (cấp tạm) và bỏ hoang vẫn được HĐĐB cho đền bù. Tổng số tiền đền bù đất dạng này lên đến 24 tỉ đồng.
Ngay cả những cá nhân không trực tiếp sản xuất cũng được nhận tiền đền bù, phần lớn là cán bộ, công chức Nhà nước địa phương.
Trong số này có 10 trường hợp là cán bộ công an, được cấp 25 ha từ năm 1995, tất cả đều không canh tác, bỏ hoang nhưng lại được HĐĐB “ưu ái” cho lĩnh tiền.
Ngoài ra, tài sản trên đất thuộc dự án chủ yếu là cây tràm, kênh mương bị bỏ hoang nhưng vẫn được bồi thường tài sản trên đất nhờ HĐĐB “hô biến” không thành có.
Bằng chứng là qua kiểm tra ngẫu nhiên 105 trường hợp nhận tiền đền bù tài sản trên đất, cơ quan chức năng đã phát hiện tới 15 trường hợp nhận tiền không đúng. Chỉ riêng 15 trường hợp này, tổng số tiền bồi thường không đúng lên đến 570,3 triệu đồng.
Sử dụng ngân sách tùy tiện
Trong kế hoạch sử dụng đất từ năm 2000 đến 2010, huyện Thủ Thừa không có dự án KCN xử lý rác.
Đến tháng 8-2002, khi TPHCM xúc tiến dự án này, UBND tỉnh Long An mới điều chỉnh bổ sung, xác định quy mô diện tích của dự án là 1.760 ha, trong đó lấy từ đất nông nghiệp 435 ha, lâm nghiệp 50 ha và đất chưa sử dụng là 1.275 ha.
Vậy mà khi tiến hành đền bù thì gần như toàn bộ diện tích này đều có chủ. Cơ quan chức năng đã phát hiện UBND huyện Thủ Thừa ban hành 343 quyết định giao đất nhưng không rõ là đã cấp cho những ai.
Sau thời gian truy lục, UBND huyện Thủ Thừa mới chứng minh được 142 quyết định nhưng trong đó chỉ có 5 đơn xin cấp đất có xác nhận của UBND xã nơi có đất, 116 đơn chỉ có xác nhận của cơ quan người xin cấp đất, còn lại 21 đơn không có xác nhận.
Theo cơ quan chức năng, chỉ bấy nhiêu cũng đủ thấy UBND huyện Thủ Thừa có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Luật Đất đai.
Chưa hết, theo quy định, đối tượng được giao đất nông nghiệp phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương, phải sinh sống bằng nghề nông nhưng UBND huyện Thủ Thừa đã giao tới 182 trường hợp là cán bộ, công chức, 19 trường hợp là thân nhân của công chức không có hộ khẩu tại địa phương, không sống bằng nghề nông.
Ngoài việc giao đất không đúng đối tượng, UBND huyện Thủ Thừa còn giao đất trái thẩm quyền với diện tích lớn để nhận tiền đền bù...
Tiền chi cho dự án ở giai đoạn bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng được Sở Tài chính TPHCM chi dưới dạng tạm ứng vốn để chuyển về Sở Tài chính Long An thực hiện việc chi trả. Tổng số tiền đã được chuyển chi cho giai đoạn đền bù gần 200 tỉ đồng.
Theo luật định, số tiền này phải được Sở Tài chính Long An hướng dẫn chủ đầu tư mở tài khoản tại Kho bạc tỉnh để thực hiện chi trả nhưng Sở Tài chính Long An đã không làm như vậy.
Ngày 13-2-2004, Sở Tài chính Long An thông báo bằng văn bản cho Sở TN-MT TPHCM chuyển tiền đền bù về Chi nhánh Quỹ hỗ trợ vốn Long An.
Việc làm này dẫn đến một nguồn kinh phí lớn thuộc ngân sách bị sử dụng ngoài sự kiểm soát của hệ thống Kho bạc Nhà nước.
Hậu quả của việc này là cho đến nay, dự toán chi của các gói thầu: đo đạc lập bản đồ hiện trạng; tổ chức kê biên; lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng; kiểm toán công tác đền bù; chi trả đền bù cho dân vẫn chưa được các cấp thẩm định nhưng tất cả đều được giải ngân. Chính vì vậy, việc quyết toán vẫn chưa thực hiện được.
Ký hợp đồng trái quy định
Ban Quản lý dự án thuộc Sở TN-MT TPHCM cũng có những sai phạm. Cụ thể là thiếu trách nhiệm trong khâu kiểm tra, giám sát các hồ sơ nhận tiền đền bù, gây thất thoát lớn; ký các hợp đồng tư vấn trái quy định về đấu thầu, thể hiện qua hợp đồng 2,3 tỉ đồng với Trung tâm Kỹ thuật đo đạc (Sở TN-MT Long An) thực hiện việc đo đạc lập bản đồ địa hình, bản đồ địa chính khu dự án; hợp đồng 2,2 tỉ đồng với Trung tâm Tư vấn dịch vụ nhà đất (Sở TN-MT Long An) thực hiện việc kê biên, lập phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng... |
Bình luận (0)