Từ ngày 6 đến 9-6, Báo Người Lao Động có loạt bài "Bức bí không gian công cộng ở TP HCM". Đây thực sự là vấn đề thời sự bởi thực trạng quy hoạch đô thị ở TP HCM hiện ngày càng trở nên bức thiết do sự dịch chuyển dân cư biến đổi không ngừng.
Là vấn đề phức tạp
Tăng trưởng kinh tế, tất yếu kéo theo dịch cư từ nông thôn vào đô thị làm dân số đô thị (phần lớn chưa đủ điều kiện và thời gian để trở thành thị dân) tăng nhanh. Việc phát triển kinh tế với áp lực dân số đòi hỏi tăng quy mô không gian đô thị tương ứng với các vấn đề văn hóa, xã hội đô thị mới nảy sinh.
Nghiên cứu quản lý quy hoạch đô thị, rộng hơn là quy hoạch vùng liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, là vấn đề phức tạp. Trong khi đó, ở Việt Nam nói chung và TP HCM nói riêng, hiện vấn đề quy hoạch vùng chưa được quan tâm đầu tư nghiên cứu đúng mức, thiếu chuyên gia giỏi và chưa có cơ quan nghiên cứu chuyên trách.
Những mảng xanh thiên nhiên đã trở thành nhu cầu bức thiết của đời sống đô thị Ảnh: ANH VŨ
Riêng về việc quy hoạch các không gian công cộng, hiện tại ở Việt Nam nói chung và TP HCM nói riêng, vấn đề này chưa thật sự được quan tâm do vấn đề về ngân sách và chi phí quản lý còn nhiều hạn chế. Các khu không gian công cộng được quy hoạch tốt thì hạn chế người dân sử dụng do phải trả phí và các hình thức đấu thầu.
Ngoài ra, do giá bất động sản tại các khu đô thị quá cao, việc tận dụng các khu đất trống, đặc biệt là những không gian công cộng để làm quán cà phê, quán ăn là rất phổ biến. Trong khi việc hình thành cũng như định hướng người dân sử dụng các không gian công cộng đúng chức năng chưa được phổ biến rộng rãi.
Thêm vào đó, các dự án bất động sản chưa phát triển đồng bộ với hệ thống hạ tầng của thành phố. Chẳng hạn các khu dân cư sau khi xây dựng và đưa vào hoạt động vẫn cô lập ranh giới phần đất dự án, chưa thật sự kết nối với hệ thống hạ tầng và tiện ích chung của thành phố như hệ thống giao thông, công viên, trường học… làm đô thị bị phân mảng và cô lập, không tạo được sự thống nhất trên tổng thể. Không chỉ vậy, chủ đầu tư của nhiều chung cư hoặc khu dự án không thực hiện đúng cam kết về các tiện ích và hạ tầng, làm cho người dân bị thiếu hụt không gian sinh hoạt, giải trí.
Xem xét chỉ tiêu diện tích công viên cây xanh
Do vậy, các nhà quản lý quy hoạch có thẩm quyền phê duyệt cần hiểu rõ vấn đề và cần có tầm nhìn đa chiều, không nên tập trung chủ yếu dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh (quy hoạch xây dựng), thiếu linh hoạt theo hướng thị trường (quy hoạch kinh tế - văn hóa - xã hội). Ngoài ra, cần quan tâm sự đồng bộ của cả thành phố và các vùng miền trên tổng mặt bằng quy hoạch.
Với tình hình phát triển các khu dân cư tại TP HCM ngày càng nhiều và hiệu ứng của các đô thị nén thì chỉ số sử dụng đất của người dân tại các đô thị càng lúc càng thu hẹp. Do đó, nhu cầu đi dạo, sử dụng các không gian công cộng của người dân càng hết sức cần thiết. Các chỉ tiêu về diện tích công viên cây xanh cần nên xem xét và điều chỉnh phù hợp.
Mặt khác, cần phân biệt mảng xanh tự nhiên trong đô thị và các mảng xanh nhân tạo, tính bền vững cũng như hiệu quả sử dụng. Ở TP HCM, các mảng xanh như Thảo Cầm Viên, Công viên Tao Đàn, Hội trường Thống Nhất... là những hệ sinh thái cây xanh lâu năm cần được bảo vệ vì giá trị sử dụng như lá phổi của thành phố, giúp lọc sạch sự ô nhiễm diễn ra hằng ngày.
Mảng xanh nhân tạo tại các công viên mới hình thành trong các khu dự án, sử dụng cỏ và các loại cây trồng di dời từ nơi khác đến nên độ thích nghi không cao, chỉ có tính chất phủ xanh công trình, chưa thật sự mang lại hiệu quả cao vì chi phí di dời, chăm sóc cũng như rủi ro cây chết là rất cao. Người dân đô thị cần những mảng xanh thiên nhiên hơn những mảng xanh nhân tạo đầy gượng gạo và tốn kém.
Ngoài ra, mảng xanh đô thị đối với đời sống tinh thần của người dân cũng rất quan trọng. Điều này đã chứng minh qua thơ ca - âm nhạc mà các nhạc sĩ, nhà thơ có thể khắc họa vào tâm trí người đô thị một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng. Chẳng hạn những câu hát đi vào lòng người như: "Con đường có lá me bay...", "Cánh hoa dầu xoay tít bay bay...".
Cần quy định rõ ràng
Không gian chung ở chung cư bị chiếm dụng là do có sự không rõ ràng giữa các khu tiện ích công cộng (là sở hữu của toàn thể dân cư) với việc tự ý sử dụng (chiếm dụng) của các chủ đầu tư hoặc nhà quản lý. Nên phân biệt giữa việc quản lý và quyền sở hữu các không gian công cộng này.
Ở Việt Nam, chưa quy định chi tiết các quyền lợi và trách nhiệm giữa nhà quản lý và dân cư. Vì vậy, cần xây dựng các chính sách nội bộ rõ ràng. Ngoài ra, các cơ quan lập pháp cần ban hành luật định cụ thể để người dân có cơ sở khiếu nại và minh bạch về quyền lợi của mình, xác định trách nhiệm của các nhà quản lý.
Bình luận (0)