* Phóng viên: QH đang bàn về sửa đổi Hiến pháp, trong đó nhấn mạnh một nội dung về kiểm soát quyền lực. Vậy cơ chế kiểm soát quyền lực trong luật pháp hiện nay đang có điểm gì bất cập cần sửa đổi, thưa bà?
- Bà Lê Thị Nga: Theo Hiến pháp, quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân, quyền lực của Nhà nước là quyền phái sinh, từ nhân dân mà ra, do nhân dân trao cho. Một kết luận mang tính chất kinh điển đã được các nhà luật học và chính trị trên thế giới khẳng định là: Quyền lực nếu không được kiểm soát sẽ trở thành tha hóa, quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn tới sự tha hóa tuyệt đối.
Tham nhũng, về bản chất là sự lạm dụng quyền lực nhà nước, sự tha hóa quyền lực bởi người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước nhằm lợi ích riêng. Đó là một "căn bệnh cố hữu" của mọi nhà nước, bất kể thuộc thể chế chính trị nào. Để chống tham nhũng tốt thì quốc gia nào cũng buộc phải xây dựng được thể chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả.
Có những quy định không phù hợp với thực tế vận hành quyền lực và với thông lệ quốc tế, như sự thiếu độc lập của mô hình Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng.
Có những quy định tuy đúng về nguyên tắc nhưng không khả thi, như Thanh tra phải có vai trò tích cực phát hiện tham nhũng, chỉ ra những sai phạm của các tổ chức thuộc trách nhiệm của chủ thể quản lý chính mình.
* Vậy còn vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của nhân dân?
- Các thiết chế giám sát từ bên ngoài với quản lý nhà nước đang thiếu hiệu quả do thiếu tổ chức bộ máy và công cụ.
Chỉ phân tích riêng về thiết chế về Kiểm toán Nhà nước đã thấy rõ điều này. Khi xây dựng luật Kiểm toán, ta đã đặt quá nhiều hy vọng cơ quan này sẽ giúp QH nâng cao chất lượng công tác giám sát, bằng quy định địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước: "Là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính của nhà nước do QH thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".
Nghe qua thì tưởng thiết chế này rất mạnh và độc lập, nhưng những quy định về tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn cụ thể thì lại vừa không đảm bảo được tính độc lập vừa làm cho Tổng kiểm toán khó phát huy vai trò hỗ trợ ĐBQH trong giám sát.
* Cụ thể như thế nào, thưa bà?
- Đảm nhiệm chức năng kiểm tra tài chính nhà nước, hỗ trợ QH giám sát chi tiêu ngân sách, giám sát sử dụng vốn, tài sản nhà nước nhất là tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhưng nhân sự Tổng kiểm toán lại phải được sự thống nhất của Chính phủ trước khi QH bầu.
Tổng kiểm toán đứng trước một vị trí pháp lý rất chơi vơi, nếu không nói là chứa đựng cả rủi ro pháp lý ngoài sự cố gắng của bản thân và cả hệ thống cơ quan kiểm toán..
Chưa kể, Tổng kiểm toán được QH bầu, thuộc diện bị QH bỏ phiếu tín nhiệm, nhưng không có quyền báo cáo công tác hàng năm trước QH.
Luật chỉ cho phép trình bày báo cáo kiểm toán năm của Kiểm toán nhà nước khi QH yêu cầu; trình bày báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm, nhưng thực tế báo cáo này cũng chưa bao giờ được trình bày mà chỉ gửi cho ĐBQH tự nghiên cứu.
Đặc biệt là Tổng kiểm toán không hề giống một chức danh nào do QH bầu hoặc phê chuẩn ở vị trí tương đương từ bộ trưởng trở lên, đó là: Không có quyền và nghĩa vụ trả lời chất vấn của Quốc hội.
* Vị trí pháp lý chơi vơi như vậy dẫn đến hệ quả gì?
- Đây là một cản trở lớn.
ĐBQH cần nhiều thông tin công khai minh bạch về tài chính và cần sự trả lời chính thức của Tổng kiểm toán với tư cách là một người chịu trách nhiệm về kiểm tra tài chính nhà nước do chính họ bỏ lá phiếu bầu ra, nhưng rào cản pháp lý đã cản trở việc này. Vì vậy, những chất vấn của ĐBQH với Tổng kiểm toán đành phải chuyển thành "yêu cầu cung cấp thông tin" vốn là một hình thức có giá trị pháp lý rất thấp.
Chưa người đứng đầu nào chịu trách nhiệm về kỷ luật tài chính
* Như vậy những khuyến cáo mà cơ quan này đưa ra liệu có giá gì không hay chỉ để "nói rồi để đấy"?
- Để kết luận của cơ quan kiểm toán có giá trị bắt buộc thì luật lại thêm thủ tục: Cơ quan, người có thẩm quyền sẽ quyết định chấp nhận kết luận kiểm toán.
Tuy nhiên, căn cứ, thủ tục, trình tự để ra quyết định chấp nhận lại chưa được quy định rõ và thực tế hầu như chưa có trường hợp nào người có thẩm quyền ra quyết định chấp nhận kết luận kiểm toán.
Chế tài khi không thực hiện lại chưa được nhắc đến. Dễ hiểu vì sao suốt nhiều năm qua, tỉ lệ chưa chấp hành kết luận lại lớn như vậy. Cũng chưa thấy cá nhân người đứng đầu phải chịu trách nhiệm vì vi phạm kỷ luật về tài chính nhà nước mà kiểm toán đã chỉ ra.
Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong Luật phòng chống tham nhũng cũng rất hình thức, khó phát huy tác dụng. Đó là, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc kiểm toán nhằm phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; trường hợp phát hiện tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý.
Những hạn chế của pháp luật nêu trên đã làm ảnh hưởng lớn hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước, hiệu quả giám sát của QH.
* Tới đây nên khắc phục những hạn chế trên như thế nào để phát huy vai trò của QH?
- Đây chính là thời điểm tốt nhất để sửa nhiều quy định bất hợp lý.
Hiến pháp cần ghi nhận địa vị pháp lý và vai trò của Kiểm toán và Tổng kiểm toán theo hướng, đó là Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do QH thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có nhiệm vụ kiểm toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia.
Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo luật định. Tổng Kiểm toán là người đứng đầu Kiểm toán nhà nước, do QH bầu theo đề nghị của Thường vụ QH; chịu sự bãi nhiệm, miễn nhiệm của QH; có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ QH và đặc biệt phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác cũng như chịu sự giám sát của QH và có trách nhiệm trả lời chất vấn của ĐBQH.
Tương tự, luật Phòng chống tham nhũng, cần quy định cụ thể, chi tiết những nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm toán nhà nước trong phòng, chống tham nhũng.
Theo tôi, tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng phải được thực hiện trên nhiều phương diện. Khắc phục những sơ hở, những thiếu sót của thể chế là một trong những việc cần làm ngay lúc này để Nhà nước thực hiện có hiệu quả quyền lực của nhân dân giao cho, nâng cao hiệu quả chống tham nhũng, đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Bình luận (0)