Đến với nhau từ hai bàn tay trắng, cuộc sống nghèo khó thiếu thốn từng cái ăn cái mặc, với 9 đứa con nheo nhóc nhưng đôi vợ chồng nghèo vẫn tảo tần nuôi các con ăn học thành người. Để cho các con đến được chân trời mơ ước, người chồng ban ngày làm lụng, tối đến lén vợ cắp sách, đạp xe đi học bổ túc văn hóa mang kiến thức về truyền lại các con.
Chính nghị lực và tình thương ấy đã được đền đáp, khi cả 9 người con đều trở thành cử nhân, thạc sĩ.
1. Người dân ở phường Nguyễn Văn Cừ (TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) đều biết tới gia đình của vợ chồng ông Võ Mai (81 tuổi) và bà Nguyễn Thị Mai (77 tuổi) về câu chuyện nuôi 9 người con thành tài. Khó có thể tin trong những năm tháng cơ cực đói khổ, cuộc sống nghèo khó là thế, nhưng hai vợ chồng vẫn cố gắng cho con ăn học đến nơi đến chốn.
Có những lúc, vợ chồng ông Mai chịu đói nhường cơm cho các con. Từng ấy năm tháng gian khổ, cuối cùng hai ông bà cũng được đền đáp xứng đáng khi 9 người con đều thành đạt nên người.
Cứ mỗi năm qua đi, những tháng ngày gian khổ của một thời lại lùi xa vào quá khứ với vợ chồng ông Mai. Thế nhưng ký ức thì chẳng thể phai nhòa. Ở tuổi 81, ông Mai vẫn bận rộn với chiếc máy photocopy cũ kỹ, còn bà Mai dành thời gian lo cho bữa cơm gia đình. Công việc ấy đủ để cho vợ chồng ông bà vui thú tuổi già và nhắc nhở về một thời cơ cực đã qua.
Ông Mai vốn là con trai cả trong một gia đình nông dân nghèo có 3 anh em trai. Thuở ấy, cậu bé Mai sinh sống cùng gia đình ở huyện Tuy Phước (tỉnh Bình Định). Vì gia cảnh nghèo khó nên học hết lớp 7, cậu bé Mai nghỉ học và làm đủ thứ nghề để mưu sinh. Muốn kiếm một nghề ổn định, năm 18 tuổi, chàng thanh niên đi học may.
Vợ chồng ông Mai.
2 năm sau, ông vào TP Quy Nhơn làm công nhân cho một xí nghiệp may. Như duyên trời định sẵn, thời gian làm việc ở đây chàng thanh niên gặp một cô gái cùng quê cũng tên Mai, đó là bà Mai bây giờ.
Bà Mai từ bé đã gặp nhiều bất hạnh, khi 5 tuổi đã mồ côi mẹ, 3 năm sau lại bị cha bỏ rơi và phải sống nhờ vào sự cưu mang của ông bà nội. Lớn lên, cô gái Mai vào TP Quy Nhơn học may và cũng xin vào làm cùng xí nghiệp với người con trai tên Mai. Cảm thương hoàn cảnh bất hạnh của cô gái trẻ, anh thanh niên Mai quan tâm giúp đỡ rồi thầm thương trộm nhớ lúc nào không hay.
Năm 1963 hai người chính thức nên vợ nên chồng sau một đám cưới đơn sơ. Giữa thời đói khổ, tình người luôn ắp đầy, đôi vợ chồng trẻ đến với nhau từ hai bàn tay trắng vẫn thương yêu nhau hết mực.
Năm 1964, cô con gái đầu lòng Võ Thị Kiều Phượng của đôi vợ chồng trẻ chào đời. Rồi lần lượt 8 người con là Lệ Hồng, Đức Dũng, Xuân Cảnh, Xuân Sang, Chí Hiếu, Xuân Đào, Kim Bằng và Quý Phương nối tiếp nhau ra đời. Nhà càng đông con bao nhiêu, càng đầy ắp tiếng cười, niềm vui bấy nhiêu, nhưng cuộc sống cũng càng khó nhọc, thiếu thốn bội phần. Hai vợ chồng ông phải sớm hôm may vá, tằn tiện cũng không lo đủ ngày 2 bữa cơm cho gia đình. Có những hôm, vợ chồng ông phải nhường cơm cho các con.
Ngày ngày nhìn con trẻ sống trong túng thiếu, thiệt thòi, ông Mai không khỏi buồn lòng. Muốn lo cho các con no đủ bằng người, ông tâm niệm dù khổ đến mấy cũng phải cho con ăn học đến nơi đến chốn. Với vốn kiến thức trước đây mình được học, ông Mai kèm cặp các con từ những ngày đầu đến trường. Sau này ông nhận ra, với kiến thức lớp 7 của mình thì chưa đủ để dạy các con. Do vậy, ông quyết định làm cái việc mà chẳng ai hiểu nổi, đó là đi học bổ túc vào ban đêm.
Lúc đó còn thời bao cấp, ông Mai đăng kí học chương trình từ lớp 8 tại phường vào buổi tối, rồi đêm đêm cắp sách, đạp xe đến lớp. Thấy chồng đã đứng tuổi lại sách vở đi học, bà Mai khuyên can: “Người ta là cán bộ nên cần đi học để làm việc, mình là dân lao động nghèo, ông đi học người ta cười cho”.
Thế nhưng với ý chí quyết tâm, ông Mai năn nỉ vợ cho mình đi học vì tương lai các con. Bà Mai dù hiểu được suy nghĩ của chồng nhưng vì cuộc sống quá khốn khó nên cũng không muốn nhà có thêm một “cậu học sinh” nào nữa.
Vợ chồng ông Mai cùng các con.
Ông Mai nhớ lại: “Lúc bé tôi muốn đi học nhưng chẳng được, sau này khi chỉ bài cho các con, tôi thấy kiến thức mình quá ít nên muốn đi học để về dạy lại cho các con, cũng là để làm gương cho con noi theo. Vì bà nhà tôi không cho nên nhiều đêm tôi phải giấu sách vở trong áo, dắt xe đạp lén đến lớp. Nhiều lúc tôi vừa dắt xe ra cổng là bả biết nên giữ lại không cho đi. Tôi đành phải dùng đủ lý do kiểu như: “Em cho anh đi học hết năm nay nữa thôi”... Và như thế, tôi học suốt 4 năm ròng thì mới chịu thực hiện lời hứa với bả”.
Những năm sau này, nghề may vá chẳng đủ để chăm lo cho đàn con, bà Mai phải đi buôn bán để kiếm tiền lo cho các con. Người vợ lặn lội cùng những chuyến hàng từ TP Quy Nhơn ngược xuôi đi khắp các tỉnh trong Nam ngoài Bắc. Bà đi từ lúc 3 giờ sáng đến tối mịt mới về đến nhà, không ngại mưa nắng bão bùng. Nhiều lúc bụng mang dạ chửa hay vừa sinh con tròn tháng, bà Mai vẫn lặn lội buôn gánh bán bưng mưu sinh.
Để vợ yên tâm bươn chải, ông Mai lại thay vợ ở nhà trông nom đàn con. Ban ngày ông làm thợ may, cần mẫn cắt từng mảnh vải, đi từng đường kim mũi chỉ. Đêm đến, ông trở thành người thầy, tay cầm thước, tay cầm phấn ân cần giảng bài, lớp học bên dưới là đàn con ngồi quây quần bên nhau chăm chú nghe giảng, học bài.
2. Rồi ngày tháng trôi qua, những đứa con của ông bà Mai lớn khôn, trong 9 người con thì cô con gái đầu chịu nhiều thiệt thòi. Khi đang học lớp 10, nhìn gia cảnh khó khăn, Kiều Phượng muốn bỏ học để theo mẹ đi làm nuôi các em. Biết được suy nghĩ của con, ông bà khuyên nhủ và động viên để con cố gắng. Chính nghị lực và tình thương của bố mẹ đã giúp Phượng tiếp tục đi trên con đường mơ ước.
Biết rằng, học thật giỏi thì mới có thể đỡ đần được bố mẹ, cô học trò nghèo miệt mài học tập. Năm 1982, Phượng thi đỗ vào Trường ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh. Tiếp bước chị, 2 năm sau cô em gái Lệ Hồng cũng thi đỗ ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
Niềm tự hào của gia đình cứ thế lớn dần lên khi năm 1986 anh Đức Dũng đỗ ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh. Năm 1988, anh Xuân Cảnh đỗ ĐH Y Dược Huế. Một năm sau, anh Xuân Sang tiếp bước anh, thi đỗ ĐH Y Dược Huế. Đến năm 1992, 1993 anh Chí Hiếu, chị Xuân Đào lần lượt thi đỗ ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh. Những năm sau, 2 người con trai cuối là anh Kim Bằng và anh Quý Phương lần lượt thi đỗ ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh và ĐH Khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh.
Đến nay, 9 người con của ông bà Mai đều đã thành tài. Trong số đó, anh Đức Dũng hiện là thạc sĩ - bác sĩ nhãn khoa và đang công tác tại Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh, anh Xuân Sang hiện là thạc sĩ - bác sĩ tim mạch, làm việc tại Bệnh viện Hoàn Mỹ TP Hồ Chí Minh.
Để nuôi các con ăn học, ông bà Mai đã phải trải qua biết bao gian khổ. Cho đến bây giờ, mỗi lần nhắc lại, ông bà vẫn nhớ như in cảnh cơ cực thiếu thốn ngày ấy. “Năm 1987, khi sinh con trai út được 4 năm thì tôi lâm bệnh nặng, có lúc tưởng như không qua khỏi nhưng vợ chồng vẫn dặn lòng không được gục ngã, may mắn sau đó căn bệnh thuyên giảm. Khi mấy đứa con đầu vào đại học, hằng ngày hai vợ chồng đối mặt với nỗi lo cơm áo gạo tiền. Lúc túng quẫn quá, tôi bàn với ông nhà bán căn nhà đang ở để có tiền lo cho các con ăn học, nhưng rồi mọi chuyện cũng qua, khi các con đầu ra trường đi làm phụ bố mẹ lo cho các em, vợ chồng tôi dần bớt khổ cực”, bà Mai tâm sự.
Với 9 người con đều trở thành cử nhân, thạc sĩ, gia đình ông bà Mai nhiều năm liền được bầu chọn là “Gia đình hiếu học” cấp thành phố, cấp tỉnh. Tháng 10/2007, gia đình ông bà được mời đi dự đại hội gặp mặt các gia đình, dòng họ khuyến học tiêu biểu toàn quốc lần thứ II, được tổ chức tại Hà Nội. “Các con đều tốt nghiệp đại học, cao học vợ chồng tôi vui sướng lắm. Niềm tự hào của chúng tôi không phải vì được Nhà nước vinh danh mà là được nhìn thấy các con học hành nên người, thoát khỏi cảnh sống thất học, đói nghèo như bố mẹ”, ông Mai tâm sự.
Sau khi học hành thành tài, 9 người con của ông bà Mai giờ đây đều đã lập gia đình và có cuộc sống ổn định. Ông Mai bảo rằng, cả năm thích nhất là dịp tết để cả gia đình sum vầy. Những ngày được quây quần bên nhau, gia đình ông thường ôn lại những câu chuyện đã qua trong dòng nước mắt hạnh phúc, chan chứa yêu thương.
“Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai”, ông bà Mai giờ đây sống với những niềm vui giản dị thường ngày. Hướng về những bức ảnh khi gia đình tụ họp, đôi vợ chồng già lại nhìn nhau với ánh mắt ngập tràn hạnh phúc. “Dù ở nơi đâu thì các con tôi vẫn hướng về bố mẹ, về ngôi nhà đã từng gắn bó, nuôi nấng chúng nên người”, bà Mai tự hào.
Đúng vậy! Bố mẹ nào lại không tự hào về sự thành đạt và hạnh phúc của các con. Nhưng để có niềm tự hào đó, nơi ngôi nhà nhỏ này có những tháng ngày, có một người chồng đêm đêm lén vợ đi học để dạy các con, có một người mẹ tảo tần sớm hôm nuôi con nên người.
Bình luận (0)