Dân ca, dân vũ Đông Anh (hay còn gọi là ngũ trò Viên Khê) là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca, lưu hành chủ yếu ở thôn Viên Khê (xã Đông Anh, huyện Đông Sơn; nay là TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Các trò diễn Đông Anh được xếp vào các hình thức diễn xướng dân gian tiêu biểu của xứ Thanh cùng với tổ khúc hò sông Mã và trò Xuân Phả. Các trò diễn Đông Anh phản ánh đời sống sinh hoạt và tâm tư tình cảm của người nông dân Việt Nam xưa.
Truyền thuyết kể lại rằng người con trai cả của Hoàng đế (Thái thú) Lê Ngọc, tên Lãng Đại Vương là thủy tổ của các trò chơi, trò diễn. Tục truyền Lãng Đại Vương về tận thôn, xóm để chung vui với nhân dân, từ đó các điệu múa được truyền dạy và phổ biến cho mọi người (từ thế kỷ V-VII).
Những điệu múa, điệu hát được lưu truyền đến ngày nay có từ thế kỷ XI (thời nhà Lý), nhưng chưa được dàn dựng thành màn trình diễn mà người dân chỉ hát vào những lúc lao động mệt nhọc trên đồng hay những ngày mùa xuân đi trẩy hội.
Cuối thế kỷ XIV đầu XV, ở tổng Thạch Khê có ông Nguyễn Mộng Tuân đỗ Tiến sĩ vào cuối triều Trần. Trong một lần về thăm quê, ông đã thấy có những điệu múa hát rất hay, nhân đó đã cùng bà con sáng tác ra 12 trò múa hát.
Từ đó, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu trong chu kỳ giáp hạt, các làng của tổng Tuân Hóa, Thạch Khê, Quảng Chiếu (nay thuộc các xã Đông Anh, Đông Thịnh, Đông Khê, TP Thanh Hóa) đều tổ chức trò diễn và chấm điểm để đi thi tại lễ hội nghè Sâm làng Viên Khê với quy mô rất lớn, thu hút đông đảo người dân trong vùng cùng về tham dự với định kỳ 3 năm một lần vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Nội dung các trò diễn là lời hát đi cùng vũ điệu để hình thành một làn điệu dân ca riêng và hết sức đặc sắc của cư dân vùng châu thổ sông Mã.
Gọi là ngũ trò vì lúc đầu trò diễn ở làng Viên Khê có 5 trò nhưng về sau do tiếp biến văn hóa nên trò diễn dân ca, dân vũ Đông Anh có đến 12 trò: Múa đèn, Tiên Cuội (hay Tiên phường), Tô Vũ, Trống Mõ, Thiếp, Vằn vương (hay trò Hùm), Thủy (hay Thủy phường), Leo dây, Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), Hà Lan (hay Hoa Lang), Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), Ngô quốc. Ngoài ra, ở Đông Anh còn có một số trò nữa như trò Đại Thánh, trò Nữ quan...
Trong các trò diễn thì trò Múa Đèn hội tụ tương đối đầy đủ các giá trị tinh túy của dân ca, dân vũ Đông Anh. Bởi, Đông Anh là nơi làm lúa nước, để tạo tinh thần thoải mái, hăng say lao động sản xuất và lưu truyền kinh nghiệm, người dân đã sáng tạo ra những lời ca, tiếng hát gắn liền với từng hoạt động sản xuất nông nghiệp, từ thời điểm gieo mạ đến vào vụ gặt rồi thời điểm nông nhàn.
Ngọn đèn trong trò diễn là vật gắn liền với cư dân nông nghiệp xưa, nó được người dân đưa vào cùng các điệu múa làm biểu tượng cho sự chuyển dịch của thời gian trong năm, là biểu tượng của ánh sáng mang lại sự sinh sôi, nảy nở cho vạn vật và ẩn chứa khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người.
Những cô gái lứa tuổi mười tám, đôi mươi, chưa chồng, trên đầu đội đèn cùng với những động tác cơ thể múa hát uyển chuyển song không được để đèn đổ hay rơi xuống. Vì thế yêu cầu về kĩ thuật là rất khó. Có lẽ vì cái hay, cái đẹp, cái giản dị mà ý nghĩa nên trò Múa Đèn được trình diễn nhiều và được lưu truyền phổ biến qua các thế hệ.
Dù là trò diễn đặc sắc, gắn liền với đời sống của cư dân, thế nhưng qua thời gian, trò diễn bị mai một, đặc biệt trong những năm tháng chiến tranh.
Đến năm 2000, Viện âm nhạc quốc gia Việt Nam và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa đã sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục được 11 trò diễn. Năm 2017, Ngũ trò Viên Khê được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Được biết, để gìn giữ, phát huy giá trị di sản độc đáo này, huyện Đông Sơn (nay là TP Thanh Hóa) đã thành lập các câu lạc bộ, mời các nghệ nhân truyền dạy cho các thành viên trong câu lạc bộ không chỉ tại xã Đông Anh mà còn ở các địa phương, tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho các em học sinh trên địa bàn làm quen, tham gia trình diễn... từ đó giúp gìn giữ và phát huy giá trị di sản.
Bình luận (0)