Thay đổi quan trọng trong dự thảo mới là các môn học chỉ còn phân thành 2 loại: Môn học, hoạt động bắt buộc và môn học tự chọn, chứ không phân thành nhiều loại như trước đây.
Tiết học giảm 50%
Ở cấp tiểu học, các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc nội dung và thời lượng các môn tiếng Việt, toán, ngoại ngữ (ở lớp 3, 4, 5) không có sự thay đổi. Môn giáo dục lối sống trong dự thảo cũ được đổi tên thành môn đạo đức; đồng thời giảm thời lượng từ 70 tiết ở các lớp 1, 2, 3 xuống còn 35 tiết.
Môn cuộc sống quanh ta (ở các lớp 1, 2, 3) được gộp chung thành một môn tự nhiên và xã hội.
Ở các lớp 4, 5, môn tìm hiểu tự nhiên được đổi thành môn khoa học. Còn môn tìm hiểu xã hội được đổi thành môn lịch sử và địa lý. Thời lượng học tập không thay đổi. Môn thế giới công nghệ dự kiến dạy ở lớp 1 đến lớp 3 trong dự thảo cũ nay bị bỏ. Hai môn tìm hiểu công nghệ và tìm hiểu tin học ở lớp 4 và lớp 5 được thay thế bằng môn học tin học và công nghệ với thời lượng bằng thời lượng của 2 môn (70 tiết/năm). Điểm mới nữa là hoạt động tự học có hướng dẫn chiếm thời lượng khá lớn trong dự thảo trước đây bị loại bỏ trong dự thảo mới nhất. Nội dung giáo dục địa phương được đưa vào hoạt động trải nghiệm.
Chương trình tiểu học sẽ được giảm mạnh số tiết học Ảnh: TẤN THẠNH
Theo dự thảo mới, tổng số tiết trong năm học ở các lớp tiểu học giảm so với trước, từ 62-132 tiết/năm. Dự thảo mới cũng nêu rõ ở cấp tiểu học, thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học. Mỗi tiết học từ 35 phút đến 40 phút, giữa các tiết học có thời gian nghỉ. Đối với các trường chỉ có điều kiện tổ chức dạy học 6 buổi/tuần sẽ không bố trí dạy học các môn tự chọn. Cơ sở giáo dục chỉ có điều kiện tổ chức dạy học 5 buổi/tuần thực hiện kế hoạch giáo dục theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Theo bản dự thảo mới, ở cấp THCS với môn giáo dục công dân, thời lượng các lớp 8, 9 giảm từ 52,5 tiết/năm còn 35 tiết/năm, giống các lớp 6, 7. Môn tin học giảm từ 52,5 tiết/năm còn 35 tiết. Môn công nghệ và hướng nghiệp đổi tên thành môn công nghệ, thời lượng ở các lớp 6, 7 giảm từ 52,5 tiết/năm còn 35 tiết/năm; ở các lớp 8, 9 giảm từ 70 tiết/năm còn 52 tiết/năm.
Bậc THPT cũng giảm khá nhiều thời lượng học, đặc biệt là lớp 11-12. Tổng số tiết học của cấp THPT là 1.015 tiết/năm, trung bình 29 tiết/tuần.
Đưa giáo dục địa phương vào chương trình
Điểm mới đáng chú ý là nội dung hướng nghiệp được đưa vào từ cấp THCS. Cụ thể, các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc đều tích hợp nội dung giáo dục hướng nghiệp; ở lớp 8 và lớp 9, các môn công nghệ, tin học, khoa học tự nhiên, nghệ thuật, giáo dục công dân, hoạt động trải nghiệm và nội dung giáo dục của địa phương có học phần hoặc chủ đề về nội dung giáo dục hướng nghiệp. Theo dự thảo mới, thời lượng giáo dục của cấp THCS giảm từ 58-78 tiết/năm so với dự thảo cũ.
Cấp THPT có sự thay đổi khá nhiều trong dự thảo mới. Cụ thể, các chuyên gia dự kiến không tách cấp học này thành 2 giai đoạn với 2 tính chất (dự hướng và định hướng nghề nghiệp) như dự thảo trước mà dồn chung thành một giai đoạn chung, thông suốt từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh sẽ học các môn học bắt buộc là ngữ văn, toán, ngoại ngữ 1, giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng và an ninh, hoạt động trải nghiệm, nội dung giáo dục địa phương. Trong đó, môn giáo dục thể chất được thiết kế thành các học phần; hoạt động trải nghiệm được thiết kế thành các chủ đề; học sinh được lựa chọn học phần, chủ đề phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường.
Định hướng nghề nghiệp từ lớp 10
Kế hoạch các môn học được lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp gồm 3 nhóm môn: Nhóm môn khoa học xã hội: lịch sử, địa lý, giáo dục kinh tế và pháp luật. Nhóm môn khoa học tự nhiên: vật lý, hóa học, sinh học. Nhóm môn công nghệ và nghệ thuật: công nghệ, tin học, nghệ thuật.
Nội dung mỗi môn học thuộc nhóm này được thiết kế thành các học phần, học sinh được lựa chọn học phần phù hợp với nguyện vọng của bản thân và khả năng tổ chức của nhà trường. Học sinh chọn 5 môn học từ 3 nhóm môn học trên, mỗi nhóm chọn ít nhất 1 môn. Ở mỗi lớp 10, 11, 12, học sinh chọn 3 cụm chuyên đề học tập của 3 môn học phù hợp với nguyện vọng của bản thân và điều kiện tổ chức của nhà trường.
Bình luận (0)