Sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cùng quy định mới liên quan việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã mở rộng quyền và cơ hội được làm mẹ của phụ nữ Việt Nam
IVF là một trong những kỹ thuật phát triển vượt bậc nhất của y học Việt Nam. Từ những kỹ thuật nền tảng đến các công nghệ hiện đại nhất thế giới, IVF tại Việt Nam không chỉ bắt kịp mà đang dần khẳng định vị thế riêng.
200.000 "em bé ống nghiệm"
Bác sĩ Đinh Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em - Bộ Y tế, cho biết IVF là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất trong ngành y tế ở nước ta.
Hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới đều đã được triển khai tại Việt Nam, từ IVF cổ điển, công nghệ ICSI (tiêm tinh trùng vào bào tương trứng), ROSI (tiêm tinh tử tròn vào bào tương noãn), nuôi cấy tinh tử, trưởng thành noãn non, xử lý các ca khó như lạc nội mạc tử cung đến ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong theo dõi phát triển của phôi.
Tính đến nay, gần 200.000 trẻ em tại Việt Nam đã được sinh ra nhờ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang lại niềm vui vô bờ bến cho các cặp vợ chồng hiếm muộn.
Theo ông Tuấn, việc hỗ trợ sinh sản không chỉ mang lại hiệu quả xã hội lớn lao mà còn góp phần vào việc giữ ổn định mức sinh, nâng cao chất lượng dân số, đáp ứng sự phát triển bền vững của đất nước. Tỉ lệ thành công của IVF đã tăng dần theo thời gian, từ 10%-20% trong giai đoạn đầu lên khoảng 40%-50% và tại một số trung tâm lớn có thể đạt tới 70%.

Sau 12 năm nỗ lực, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản - Bệnh viện Bưu điện đã nâng tỉ lệ IVF thành công lên đến 65%-70%. Ảnh: NGỌC DUNG
Gần 3 thập kỷ mở cánh cửa hy vọng
Bệnh viện Từ Dũ (TP HCM) là đơn vị đầu tiên triển khai kỹ thuật IVF tại Việt Nam từ năm 1998. Đến nay, hơn 32.000 trẻ đã chào đời nhờ IVF tại bệnh viện này.
Là người tiên phong của ngành điều trị hiếm muộn tại Việt Nam, GS-TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, cho biết trong quá trình làm nghề, bà đã tiếp xúc nhiều phụ nữ do tắc vòi trứng nên không thể mang thai tự nhiên.
"Khi biết thế giới có phương pháp IVF, chúng tôi cố gắng thành lập Khoa Hỗ trợ sinh sản, Phòng Thụ tinh trong ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ. Thời điểm đó, cả nước khó khăn nên không nhiều người ủng hộ. Không được cấp kinh phí, chúng tôi tự bỏ tiền, vận động thêm nhà hảo tâm để mua sắm trang thiết bị, dụng cụ. Nhiều người cho rằng "bà này chắc "khùng" rồi, đang thiếu ăn lại muốn làm ra thêm người"!" - GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng nhớ lại.
Thời điểm chào đón 3 em bé đầu tiên chào đời nhờ IVF là niềm vui không chỉ của gia đình mà còn của cả các y - bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ. "Tôi nhớ mãi hình ảnh người đàn ông chắp tay xá khi con vừa chào đời. Anh nói gần 50 tuổi đầu mới có được đứa con" - GS Nguyễn Thị Ngọc Phượng xúc động.
Là 1 trong 3 "em bé ống nghiệm" đầu tiên tại Việt Nam, con gái người đàn ông nêu trên - chị L.T.T (27 tuổi) - chia sẻ bản thân cảm thấy rất tự hào khi là một phần của dấu mốc y học đặc biệt. "Tôi mong các cặp vợ chồng hiếm muộn luôn giữ vững niềm tin, vì điều kỳ diệu có thể đến bất cứ lúc nào" - chị bày tỏ.
Theo BSCK2 Trần Ngọc Hải, Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, hiện nay, đơn vị này ứng dụng nhiều kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến như ICSI, MESA-ICSI, TESE-ICSI, chẩn đoán di truyền tiền làm tổ (PGD), hỗ trợ phôi thoát màng laser, mang thai hộ, bảo tồn khả năng sinh sản... "Sứ mệnh của chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn thực hiện ước mơ làm cha mẹ mà còn đồng hành bằng công nghệ và sự thấu cảm" - ông nhấn mạnh.
Bệnh viện Hùng Vương (TP HCM) cũng đã trở thành một trong những trung tâm IVF hàng đầu sau hơn 20 năm phát triển. PGS-TS-BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, Giám đốc Bệnh viện Hùng Vương, cho biết mỗi năm, bệnh viện thực hiện gần 1.000 chu kỳ chọc hút trứng và hơn 1.700 chu kỳ chuyển phôi với tỉ lệ thành công trung bình 40%-50%, thậm chí lên đến 70% ở phụ nữ trẻ tuổi.
Không nhớ đã làm "cha mẹ" của bao nhiêu đứa trẻ
Trung tâm Hỗ trợ sinh sản - Bệnh viện Bưu điện (TP Hà Nội) tuy ra đời muộn hơn các cơ sở khác (tháng 6-2013) nhưng những năm qua đã trở thành địa chỉ uy tín với nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn ở khu vực phía Bắc.
Bác sĩ Nguyễn Thị Nhã, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản - Bệnh viện Bưu điện, cho biết từ đầu những năm 2000, bệnh viện đã cử nhân sự đi đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, đặt những viên gạch đầu tiên cho hành trình làm chủ công nghệ IVF. Bà nhớ lại: "Đến nay, hàng chục ngàn em bé khỏe mạnh đã ra đời nhờ kỹ thuật IVF tại đây. Các bác sĩ cũng không thể nhớ mình đã làm "ông bố, bà mẹ" của bao nhiêu "em bé ống nghiệm" tại trung tâm".
Hiện nay, tỉ lệ thực hiện IVF thành công của Trung tâm Hỗ trợ sinh sản - Bệnh viện Bưu điện đạt 65%-70%. Trung tâm còn thực hiện thành công nhiều ca IVF khó như: Lớn tuổi, có tinh trùng bất động 100%, mắc bệnh lý di truyền…
Trong khi đó, IVF Mỹ Đức Gia Định - Bệnh viện Đa khoa Gia Định (TP HCM) - một trung tâm thành lập chưa lâu, được Bộ Y tế thẩm định đạt chuẩn - cũng ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật.
Bác sĩ Lê Tuấn Quốc Khánh, Đơn vị Hỗ trợ sinh sản - Bệnh viện Đa khoa Gia Định, cho biết bệnh viện đang áp dụng các kỹ thuật hiện đại đa dạng như ICSI, IUI, PGT, nuôi cấy phôi có camera quan sát liên tục (Timelapse), IVF không kích thích buồng trứng… "Đặc biệt, công nghệ Timelapse được áp dụng cho tất cả bệnh nhân mà không phát sinh chi phí, góp phần tăng tỉ lệ thành công và rút ngắn thời gian chờ đợi" - ông nhấn mạnh.
Theo ThS-BS Hồ Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TP HCM (HOSREM), Việt Nam ứng dụng IVF muộn hơn thế giới 20 năm và sau các nước trong khu vực khoảng 10 năm. Khi ấy, kiến thức chuyên môn, thiết bị công nghệ và cả nguồn nhân lực của nước ta còn rất hạn chế. Tuy nhiên, với sự nỗ lực không ngừng nghỉ của đội ngũ chuyên gia, y - bác sĩ, đến nay, Việt Nam không chỉ bắt kịp mà còn vươn lên dẫn đầu khu vực về số lượng trung tâm IVF, công bố khoa học và một số kỹ thuật tiên tiến.
"Trong khu vực ASEAN, Việt Nam là nước có ngành IVF quy mô lớn nhất, nhiều công bố khoa học nhất và đi đầu trong nhiều công nghệ" - bác sĩ Hồ Mạnh Tường tự hào.
(Còn tiếp)
Bình luận (0)