Công nhân Điện lực Thuận An (Công ty Điện lực Bình Dương) thay đường dây quốc lộ 13, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (ảnh chụp sáng 27-1-2013) - Ảnh minh họa : Nguyễn Công Thành
Để bù vào những thất thu đó, những năm qua ngành này liên tục đề nghị tăng giá bán điện cho người dân.
Giao chỉ tiêu kinh doanh phải lỗ (?)
Theo kết luận thanh tra, tính đến hết năm 2011, công ty mẹ EVN đã đầu tư vốn ra ngoài lên đến trên 121.000 tỉ đồng, trong khi vốn điều lệ của công ty mẹ chỉ có gần 77.000 tỉ đồng. Việc EVN đầu tư ra ngoài doanh nghiệp vượt vốn điều lệ hơn 45.000 tỉ đã vi phạm quy định của Bộ Tài chính. Đáng chú ý, mặc dù đầu tư ra ngoài cả trăm ngàn tỉ đồng nhưng EVN không thu được đồng lãi nào mà lỗ đến 2.195 tỉ đồng.
Việc kinh doanh thua lỗ này còn tập trung tại bảy công ty 100% vốn của EVN gồm các tổng công ty Điện lực miền Bắc, miền Trung, miền Nam; Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội, TP HCM; Công ty Nhiệt điện Uông Bí, Cần Thơ, với số tiền lỗ hơn 3.648 tỉ đồng. Thanh tra Chính phủ xác định EVN đầu tư cả ngàn tỉ đồng vào những lĩnh vực nhiều rủi ro như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán nhưng vượt tỉ lệ vốn góp theo quy định như tại Công ty Tài chính cổ phần điện lực, Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Công ty cổ phần chứng khoán An Bình...
Đối với các đơn vị thành viên của EVN, Thanh tra Chính phủ đã kiểm tra, xác định vi phạm không kém gì công ty mẹ khi đầu tư tràn lan ra ngoài và thua lỗ nghiêm trọng. Điển hình là Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia (NPT) không bảo toàn được vốn nhà nước do phải thực hiện kế hoạch lỗ EVN giao. Theo đó, tính đến hết năm 2011 đơn vị này lỗ 3.145 tỉ đồng.
Mặc dù thua lỗ nặng nề nhưng NPT còn bị các tổng công ty điện lực chậm trễ trong việc thanh toán nợ sau khi bàn giao lưới điện 110kV cho các tổng công ty với giá trị hơn 1.000 tỉ đồng. Tương tự như NPT, Tổng công ty Điện lực Hà Nội cũng không bảo toàn được vốn trong năm 2011 do thực hiện kế hoạch lỗ EVN giao, vốn đầu tư của chủ sở hữu giảm hơn 328 tỉ đồng. Các tổng công ty khác như Điện lực miền Nam cũng được giao kế hoạch lỗ trong sản xuất kinh doanh lên đến hơn 1.200 tỉ đồng. Ngoài ra, hầu hết các tổng công ty được kiểm tra đều đầu tư ra ngoài ngành nghề kinh doanh chính với số tiền hàng trăm tỉ đồng…
Tính chi phí xây biệt thự, chung cư, sân tennis vào giá bán điện
Theo quy định của Luật điện lực, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) có trách nhiệm xây dựng và ban hành khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện để xác định giá mua điện tại các nhà máy phát điện và giá bán buôn điện cho các tổng công ty điện lực của EVN. Tuy nhiên, Thanh tra Chính phủ cho biết đến tháng 7-2012, Bộ Công thương chưa ban hành khung giá này để EVN có cơ sở thực hiện nên EVN tự quyết định giá bán buôn điện cho các tổng công ty điện lực cao hơn so với giá bán buôn điện bình quân được bộ quy định.
Trong khi đó, chi phí truyền tải điện lại được EVN quyết định, thanh toán cho Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia thấp hơn mức giá Bộ Công thương phê duyệt. Mặc dù EVN đã có văn bản báo cáo, giải trình nhưng Bộ Công thương không có ý kiến trả lời nên EVN vẫn áp dụng. Do đó dẫn đến chưa đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch về giá bán buôn điện, chi phí truyền tải điện giữa EVN và các đơn vị thành viên.
Đối với công tác triển khai các dự án điện, từ năm 2005 đến tháng 7-2012, EVN triển khai 20/42 dự án chậm tiến độ dẫn đến thiếu hụt sản lượng điện, tăng chi phí đầu tư cho dự án. Điển hình là dự án Nhà máy nhiệt điện Uông Bí mở rộng, ngoài số tiền trên 167 tỉ đồng phải chi thêm ngoài hợp đồng tổng thầu EPC, còn phát sinh chi phí cho khoản dầu đốt lại lò do xảy ra sự cố phải ngừng hoạt động.
Đáng chú ý, trong sáu dự án nguồn điện gồm nhiệt điện Ô Môn 1, nhiệt điện Phú Mỹ 1 và 4, nhiệt điện Nghi Sơn 1, nhiệt điện Hải Phòng 1, nhiệt điện Quảng Ninh 1, đều có hạng mục “khu nhà quản lý vận hành và sửa chữa”. Tuy nhiên, trên thực tế đó là 355.000 m2 đất được xây dựng gồm nhà ở cho cán bộ với các loại biệt thự đơn lập, nhà song lập, nhà liền kề, chung cư cao tầng, có cơ sở hạ tầng đi kèm như nhà trẻ, bể bơi, sân tennis… với tổng giá trị đầu tư trên 595 tỉ đồng. Toàn bộ chi phí này nằm trong tổng mức đầu tư dự án nguồn điện, do đó sẽ được tính vào giá bán điện là không đúng quy định.
Trong khi chi cả trăm nghìn tỉ đồng đầu tư ra ngoài và thua lỗ hàng nghìn tỉ đồng một cách dễ dàng thì EVN lại khó khăn trong việc chi trả nợ cho các đối tác phát điện trong và ngoài ngành. Cho đến hết năm 2011, Công ty Mua bán điện của EVN còn nợ hơn 22.000 tỉ đồng của các nhà máy phát điện, trong đó có hơn 10.000 tỉ đồng là nợ đã quá hạn thanh toán của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) hơn 9.200 tỉ đồng và Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam (TKV) hơn 335 tỉ đồng. Đáng chú ý, toàn bộ các khoản nợ này đều chưa tính đến các khoản lãi phạt do chậm trả theo hợp đồng. Khi Thủ tướng có chủ trương khoanh nợ khoản nợ của EVN với PVN, EVN cũng lờ luôn việc trả nợ khi chậm xây dựng phương án phát hành trái phiếu của EVN có sự bảo lãnh của Chính phủ để xử lý nợ, đến thời điểm Thanh tra Chính phủ kiểm tra cũng chưa xây dựng phương án này. Thậm chí EVN cũng không theo dõi lãi phải trả do chậm thanh toán nên việc chậm xử lý nợ đã gây nhiều khó khăn cho cả hai bên.
Tiền lãi biến thành chi phí sản xuất điện (!)
Ngoài ra, công ty mẹ EVN còn hướng dẫn hạch toán chuyển nguồn vốn không đúng tại 11 dự án dẫn đến tiền lãi thu được biến thành tiền nằm trong giá thành sản xuất kinh doanh, làm tăng chi phí sản xuất điện.
Do thay đổi nguồn vốn hình thành tài sản nên lãi trái phiếu tương ứng gần 224 tỉ đồng đã được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện trong năm, làm tăng chi phí sản xuất điện trong năm 2011. Trong khi đó, khoản tiền này phải được hạch toán vào chi phí lãi vay của các dự án nguồn điện theo phương án phát hành trái phiếu dưới hình thức thu hồi vốn đầu tư trích khấu hao tài sản cố định khi tài sản hoàn thành, đưa vào sử dụng.
Tất cả những khuyết điểm, vi phạm được nêu trong kết luận thanh tra, Thanh tra Chính phủ cho rằng nguyên nhân chính do lãnh đạo EVN chưa chấp hành đúng các quy định về quản lý, sử dụng vốn tài sản; chưa thực hiện đúng quy định về đầu tư xây dựng đối với các dự án nguồn điện, còn để xảy ra các tồn tại, vi phạm làm tăng chi phí sản xuất điện; mặc dù đã được cơ quan chức năng cảnh báo nhưng EVN vẫn đầu tư vào EVN Telecom dẫn đến kinh doanh không hiệu quả, mất vốn nhà nước. Trách nhiệm này là của hội đồng thành viên, ban tổng giám đốc của EVN và các tổng công ty đã được kiểm tra. Kết thúc thanh tra, Thanh tra Chính phủ kiến nghị xử lý tài chính gần 1.100 tỉ đồng và 1,648 triệu USD vi phạm.
EVN “biếu không” Viettel gần 10.000 tỉ đồng Đối với việc đầu tư vào EVN Telecom, đến thời điểm bàn giao tài sản cho Viettel, EVN đã đầu tư vào công ty này hơn 2.425 tỉ đồng và EVN Telecom đã lỗ đến gần 3.000 tỉ đồng dẫn đến việc mất vốn nhà nước toàn bộ số tiền đã đầu tư. Nguyên nhân thua lỗ được xác định do lãnh đạo EVN và EVN Telecom đã có khuyết điểm trong việc tổ chức nghiên cứu đánh giá, lựa chọn công nghệ, mô hình tổ chức kinh doanh chưa phù hợp, các tổng công ty điện lực vừa kinh doanh điện vừa kinh doanh viễn thông nên không chuyên nghiệp. Mặc dù thua lỗ như vậy, đáng ra EVN phải làm hết sức mình để cắt giảm thua lỗ, bù lại những thiệt hại cho Nhà nước trong việc chuyển giao EVN Telecom nhưng EVN không thực hiện như vậy mà còn thỏa thuận không thu phí trong vòng 30 năm đối với toàn bộ hệ thống cáp viễn thông chuyển giao sang Viettel, các tuyến cáp của Viettel đã, đang và sẽ triển khai trong toàn bộ hệ thống cột điện của EVN trong hiện tại và tương lai. Thỏa thuận này đã tạo điều kiện cho Viettel giảm được giá thành dịch vụ viễn thông, tăng doanh thu tương ứng trên 354 tỉ đồng/năm (hơn 10.628 tỉ đồng trong 30 năm). Cũng trong việc thực hiện việc chuyển giao EVN Telecom, tính đến thời điểm thanh tra, Viettel chưa chi trả cho EVN khoản công nợ theo các cam kết của hợp đồng đã ký với số tiền hơn 11.000 tỉ đồng. Theo thỏa thuận này, Viettel phải chi trả trong năm năm, vào ngày 31-3 hằng năm. |
Chi hàng triệu USD để lấy bằng thạc sĩ không được thừa nhận Trong công tác đào tạo, EVN và khoa sau đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội đã ký hợp đồng đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh cho 164 cán bộ thuộc EVN. Số tiền đã thanh toán cho khoa sau đại học là 1,648 triệu USD, các chi phí khác phục vụ việc đào tạo gần 500 triệu đồng. Thực tế, khoa sau đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội lại giao cho Trung tâm Công nghệ đào tạo và hệ thống việc làm (ETC) thực hiện hợp đồng. ETC liên kết với Đại học Griggs của Mỹ đào tạo và cấp bằng. Toàn bộ số tiền đào tạo đều đã được chuyển cho ETC và Đại học Griggs. Tuy nhiên, bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh của trường này cấp chưa được cơ quan nhà nước của Việt Nam công nhận. |
Bình luận (0)