Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (VITIC) vừa có báo cáo về một số loại hàng hóa xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm nay. Với mặt hàng chè, khối lượng xuất khẩu đạt 69.000 tấn, tăng gần 5% song giá trị lại giảm hơn 2% so với cùng kỳ.
Việt Nam có thị trường xuất khẩu chè lớn nhất là Pakistan với 33,7% thị phần. 7 tháng đầu năm, xuất khẩu chè vào thị trường này đã giảm 11,1% về giá trị do giá giảm tới 9,8% so với cùng kỳ. Những thị trường có giá trị xuất khẩu tăng mạnh là Indonesia (gấp 2,1 lần), Malaysia (gấp 1,8 lần), Philippines (gấp 3,5 lần) và Trung Quốc (gấp 1,3 lần).
Cũng theo VITIC, Việt Nam là nước xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới (sau Kenya, Sri Lanka, Trung Quốc, Ấn Độ), sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là chè đen, chè xanh, chè ô long, chè nhài, chè đen OTC…
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, chè Việt Nam đang có giá xuất khẩu thấp nhất, chỉ bằng 60-70% giá chè thế giới, thị trường lại chưa ổn định. Cụ thể, giá chè xuất khẩu những tháng đầu năm 2016 đã giảm tới 6,6%, chỉ đạt khoảng 1.160 USD một tấn.
Nguyên nhân chính được cho là do mất an toàn thực phẩm và chất lượng chè chưa tốt, việc sử dụng thuốc trừ sâu bệnh cho chè ở nhiều nơi còn khá tuỳ tiện, không đảm bảo thời gian cách ly… còn phổ biến ở nhiều vùng chè.
Cùng với tình trạng sử dụng thuốc tùy tiện, nồng độ cao hơn quy định, việc dùng thuốc ngoài danh mục được phép sử dụng trên chè là nguyên nhân chính khiến dư lượng thuốc trên sản phẩm cao.
Những nguyên nhân này khiến nhiều lô hàng chè xuất khẩu của Việt Nam bị đối tác cảnh báo hoặc trả về. Thời gian qua, nhiều lô hàng xuất khẩu lên tới hàng tấn bị trả về do hàm lượng tạp chất và các chất không đạt tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, tình trạng nhiều cơ sở chế biến chè không có vùng nguyên liệu mà thu gom nguyên liệu qua nhiều trung gian. Dẫn tới không kiểm soát được dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, cộng với giá cả thu mua không hợp lý làm tăng giá nguyên liệu đầu vào và kéo dài thời gian bảo quản, làm giảm chất lượng nguyên liệu, tương ứng với giảm chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Để giải quyết tình trạng này, Bộ Công Thương cho rằng Nhà nước, doanh nghiệp cần quan tâm đến khoa học, công nghệ. Các cơ sở chế biến chè phải tạo được vùng nguyên liệu ổn định, lâu dài. Đặc biệt, là doanh nghiệp phải tự tổ chức dịch vụ bảo vệ thực vật tập trung thay thế việc sử dụng bảo vệ thực vật của các hộ nhận khoán và hộ nông dân trồng chè mới hy vọng kiểm soát được việc tồn dư chất độc hại trên sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm và nâng cao năng suất, chất lượng chè.
Trong định hướng quy hoạch sản xuất chè an toàn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng nhấn mạnh, việc sản xuất, chế biến chè phải gắn với quy hoạch vùng sản xuất an toàn.
Bình luận (0)