Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng vừa ký quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành (sân bay Long Thành). UBND tỉnh Đồng Nai là chủ đầu tư dự án, thực hiện tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Cần 5.000 ha đất xây sân bay Long Thành và 364,21 ha đất xây dựng 2 khu tái định cư
Theo TTXVN, mục tiêu của dự án nhằm thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để có mặt bằng "sạch" giao chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành đúng tiến độ.
Thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên các phần diện tích thuộc địa bàn huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai: 5.000 ha đất xây cảng hàng không; 364,21 ha đất xây dựng 2 khu tái định cư gồm: Khu dân cư, tái định cư Lộc An - Bình Sơn 282,35 ha; một phần Phân khu III Khu dân cư, tái định cư Bình Sơn 81,86 ha.
Tổng mức đầu tư dự án là 22.856 tỉ đồng, trong đó, 4.189 tỉ đồng xây dựng hạ tầng các khu tái định cư; 479 tỉ đồng tái lập hạ tầng ngoài ranh giới cảng hàng không; 17.855 tỉ đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; 306 tỉ đồng đào tạo nghề, giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống người dân; lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án 27 tỉ đồng.
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thời gian chuẩn bị và thực hiện dự án từ năm 2017 đến năm 2021.
Các dự án thành phần có cấu phần xây dựng, gồm: Hệ thống hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Lộc An - Bình Sơn; các công trình xã hội khu dân cư, tái định cư tại xã Lộc An - Bình Sơn; hệ thống hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Bình Sơn; các công trình xã hội khu dân cư, tái định cư xã Bình Sơn; tái lập hạ tầng kỹ thuật - hạ tầng xã hội ngoài ranh giới Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Báo cáo chậm so với yêu cầu
Trước đó, tháng 10-2018, Chính phủ đã có báo cáo về tình hình triển khai thực hiện dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành (sân bay Long Thành) gửi Quốc hội chuẩn bị cho kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV. Báo cáo đánh giá việc hoàn thiện và thẩm định duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án giải phóng mặt bằng (GPMB) chậm so với yêu cầu. Được biết, phần lớn diện tích đất cần bàn giao cho Bộ GTVT để xây dựng sân bay Long Thành là diện tích đất vườn cây cao su của Công ty TNHH MTV Tổng Công ty Cao su Đồng Nai (khoảng 1.099 ha/1.165 ha cần bàn giao) và khoảng gần 200 hộ dân.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đánh giá việc thẩm định và phê duyệt báo cáo báo cáo nghiên cứu khả thi dự án này còn khá chậm. Cu thể, sau 1 năm kể từ khi Quốc hội có Nghị quyết số 53/2017/QH14 theo đề nghị của Chính phủ nhưng đến nay dự án vẫn chưa được quyết định đầu tư. Việc chậm tiến độ của dự án thành phần này có thể ảnh hưởng lớn đến tiến độ dự án đầu tư giai đoạn 1 của sân bay Long Thành và ảnh hưởng lớn đến sinh kế của người dân do việc thực hiện các quyền sử dụng đất bị hạn chế.
Đồng thời, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị Chính phủ làm rõ sự khác biệt về số liệu diện tích thu hồi đất dự án và tổng mức đầu tư trong báo cáo của Chính phủ so với Nghị quyết của Quốc hội. Theo Nghị quyết số 53/2017/QH14 ngày 24-11-2017 thì diện tích đất phân khu III của khu tái định cư Bình Sơn là 97 ha, tổng mức đầu tư dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 22.938 tỉ đồng, trong khi, theo báo cáo của Chính phủ thì diện tích này là 81,86 ha, tổng mức đầu tư dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 22.856 tỉ đồng.
Ngay sau khi Chính phủ phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án GPMB, UBND tỉnh Đồng Nai sẽ tập trung triển khai đồng thời các công tác sau: Thực hiện GPMB để xây dựng các khu tái định cư (toàn bộ khu đất này cũng là đất vườn cây cao su của Công ty TNHH MTV Tổng Công ty Cao su Đồng Nai); triển khai công tác đầu tư xây dựng hạ tầng các khu tái định cư; thực hiện GPMB 1.165 ha (giai đoạn 1) gồm: 1.099 ha của Công ty TNHH MTV Tổng Công ty cao su Đồng Nai và đất của khoảng 200 hộ dân; thực hiện đào tạo nghề, giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống của người dân trong vùng dự án.
Phần diện tích còn lại của dự án, UBND tỉnh Đồng Nai sẽ tiếp tục thực hiện để hoàn thành trước năm 2021 theo Nghị quyết số 53/2017/QH14 của Quốc hội.
Bình luận (0)