Ngày 29-11, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính trị thế giới đã phối hợp với Chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách - VEPR) tổ chức hội thảo Đánh giá về tác động của vốn vay Trung Quốc với sự tham dự của nhiều học giả, chuyên gia kinh tế.
Vốn đi đến đâu, người đi đến đó
TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, cho biết hiện nay, có cuộc đua giữa Nhật Bản và Trung Quốc về cấp tín dụng phát triển đầu tư cơ sở hạ tầng cho các nước đang phát triển.
Trước năm 2013, Trung Quốc cho vay đa lĩnh vực, chủ yếu là năng lượng, hạ tầng. Sau năm 2013, dòng tín dụng Trung Quốc đã hướng theo chiến lược “Một vành đai, một con đường” và tập trung chủ yếu vào các quốc gia nằm trên 2 con đường này. Có thể nói Trung Quốc giống như gã khổng lồ sẵn sàng cung ứng tiền cho cả thế giới, lấp chỗ trống cho những quốc gia vừa đạt mức thu nhập trung bình không còn đủ điều kiện vay ưu đãi của các định chế tài chính khác nữa, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà tất cả các quốc gia đều mong muốn đánh giá toàn diện tác động của dòng vốn này, từ kinh tế, công nghệ đến chính trị, xã hội. Có 2 điểm nổi bật của dòng vốn Trung Quốc. Đó là không minh bạch về tổng quy mô tín dụng và điều kiện vay vốn gắn chặt với lợi ích của Trung Quốc. Ví dụ, chương trình cho vay đổi lấy tài nguyên ở các nước châu Phi, Mỹ Latin hay đặc điểm “vốn đi đến đâu, người đi đến đó” như tại các dự án Trung Quốc ở miền Trung Việt Nam. Có những dự án Trung Quốc mang theo hàng chục ngàn lao động, dẫn đến nguy cơ tạo áp lực xã hội và kể cả xung đột văn hóa đối với người bản địa.
Theo TS Thành, vốn Trung Quốc vay dễ chứ không rẻ. Rất nhiều dự án bị đội vốn, tham nhũng, thiếu những điều kiện ràng buộc về bảo vệ môi trường… Điều này khác với các ràng buộc môi trường, cân bằng, an sinh xã hội của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á thời gian qua. Nếu hy sinh để nhận những nguồn vốn dễ dàng từ Trung Quốc, các quốc gia có nguy cơ lãnh hậu quả lớn. Vốn vay của Trung Quốc chưa xử lý được vấn đề phát thải ô nhiễm, chống tham nhũng ngay từ chính sách quốc gia của họ. Do có cơ chế khá lỏng lẻo trong cho vay nên nhiều nước khát vốn dễ dàng dính bẫy với dòng vốn này.
Đừng ảo tưởng vốn ngoại
Tại hội thảo, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận xét vốn Trung Quốc có đặc điểm: gánh nặng nợ lớn hơn so với quy mô ban đầu do bị đội vốn dự án; chèn ép sự phát triển của doanh nghiệp (DN) bản địa do DN trong nước không được tham gia dự án; làm đảo lộn quy hoạch trong nước; lấy tài nguyên giá rẻ và tạo nên sự lệ thuộc vào Trung Quốc do họ mang thiết bị, vật tư sang, kéo theo nhiều quan hệ khác về thương mại, xuất nhập khẩu.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng cảnh báo nếu tiếp tục quá coi trọng vay bên ngoài hoặc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thay vì nỗ lực tạo cơ hội cho DN nội tham gia các dự án trong nước, chúng ta sẽ dựa quá nhiều về ngoại lực, dẫn đến xu hướng coi trọng tầm nhìn trước mắt, quên đi tầm nhìn dài hạn.
Từ những phân tích nêu trên, TS Phạm Sỹ Thành đúc kết: “Tôi thấy quan điểm của học giả và Chính phủ rất khác biệt về vấn đề vay vốn Trung Quốc. Chúng tôi cũng có quan điểm của mình. Khi đánh giá vốn vay Trung Quốc, không chỉ đánh giá từ nhu cầu vay, điều kiện vay, tác động về mặt kinh tế mà phải tiếp cận tổng hợp từ tất cả khía cạnh, trên cơ sở đó mới quyết định nhận hay không nhận”.
Trả lời thẳng vào vấn đề đang gây tranh cãi trong dư luận hiện nay là có nên vay vốn Trung Quốc để xây đường cao tốc Bắc - Nam hay không, TS Thành thẳng thắn: “Dự án này chia nhỏ thành nhiều giai đoạn đầu tư, chưa cấp thiết thì không nên sốt sắng nghĩ đến vay Trung Quốc”.
Theo chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vay vốn Trung Quốc phải rất cẩn thận với tác động tiêu cực, phải luôn cân nhắc tính tới mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai bên. Chỉ nên tính đến khả năng vay Trung Quốc sau cùng khi nguồn tín dụng của các định chế tài chính khác khó khăn.
Nhiều dự án gây bức xúc
Ông Trần Toàn Thắng, Phó trưởng Ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh - Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, cho rằng khác với thông lệ cho vay ODA, Trung Quốc không có cam kết hằng năm về ODA cho Việt Nam mà là khoản vay vụ việc hoặc theo hiệp định riêng. Thông tin về các khoản vay này không được công khai.
Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc cho Việt Nam vay khoảng hơn 600 triệu USD vốn ODA và 50 triệu USD vốn không hoàn lại. Nhưng tài chính vào Việt Nam chủ yếu ở vay thương mại có bảo lãnh của Chính phủ, thường của DN nhà nước, hầu hết là khoản vay cho nhiệt điện, hạ tầng đường sắt - những khoản ta không vay được từ các nguồn khác. Những dự án này gây bức xúc trong dư luận chủ yếu do cách triển khai của nhà thầu Việt Nam.
Bình luận (0)