TAND Cấp cao tại TP HCM vừa công bố bản án phúc thẩm vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa ông N.X.H (56 tuổi; nguyên đơn) và bà B.T.N. (95 tuổi; bị đơn), là mẹ ruột của ông H.
Theo hồ sơ, ông H. sang Đức từ năm 1988, lập gia đình và gửi tiền về nước đầu tư. Năm 1996, ông nhờ em trai là N.X.L – khi đó mới 20 tuổi, đứng tên hộ xưởng may ở quận Gò Vấp (chuyên thu mua hàng may mặc xuất khẩu sang Đức), do lúc đó Việt kiều chưa được phép đăng ký kinh doanh. Giai đoạn 2001 - 2004, vợ chồng ông H. mang khoảng 15 tỉ đồng về mua đất, xây xưởng và nhờ người thân đứng tên hộ, trong đó có 7 lô đất mang tên bà N. Suốt hơn 20 năm, vợ chồng ông H. giữ giấy tờ, trực tiếp quản lý và khai thác các tài sản này.
Trước khi sang Mỹ định cư năm 2003, ông N.X.L viết tay giấy xác nhận xưởng may thuộc sở hữu của anh trai, còn ông chỉ đứng tên hộ. Tuy nhiên sau đó, gia đình ông H. phát sinh tranh chấp tài sản.

Ảnh minh hoạ AI
Tại phiên sơ thẩm, ông L. thừa nhận vợ chồng ông H. mang 15 tỉ đồng về nước nhưng phủ nhận đó là tiền mua đất, xây xưởng, cho rằng tài sản được hình thành từ lợi nhuận xưởng may do ông đứng tên. Tuy nhiên, tòa bác bỏ lập luận này vì theo Chi cục Thuế Gò Vấp, doanh thu xưởng may giai đoạn 2001 - 2002 chỉ hơn 1 tỉ đồng mỗi năm, mức nộp thuế rất thấp, không thể tích lũy đủ để mua hàng loạt bất động sản trị giá hàng tỉ đồng.
Sau gần 10 năm khởi kiện, tháng 8-2024, sau khi xem xét chứng cứ, hành vi thực tế quản lý, khai thác và lời khai của các bên, TAND TP HCM tuyên toàn bộ 7 lô đất và xưởng may thuộc sở hữu vợ chồng ông H. Bà N. được ghi nhận có công đứng tên hộ, được thanh toán hơn 3,4 tỉ đồng. Ông L. được chia 10% giá trị cơ sở kinh doanh nhưng ông H. tự nguyện tặng em trai một lô đất trị giá 8 tỉ đồng.
Tưởng chừng vụ án khép lại nhưng sau đó bà N. và ông L. bất ngờ kháng cáo. Tại phiên toà phúc thẩm, bà N. thông qua người đại diện ủy quyền một mực khẳng định số tiền mua 7 lô đất là từ lợi nhuận từ xưởng may, do ông H. và ông L. thành lập, có sự góp công của hai con khác. Tuy nhiên, bà không đưa ra bất kỳ chứng cứ cụ thể nào để chứng minh.
Nếu tại phiên sơ thẩm, bà N. chỉ đề nghị ông H. xây nhà cho các em trên phần đất tranh chấp thì khi kháng cáo, bà yêu cầu được công nhận ít nhất một lô đất, cho rằng 3,4 tỉ đồng được tuyên không đủ mua lô đất mới ở TP HCM nên đề nghị hủy toàn bộ bản án.
Dù cả bà N. và ông L. không cung cấp chứng cứ mới, HĐXX phúc thẩm vẫn bất ngờ chấp nhận kháng cáo của bà N. Trong khi đó, VKSND Cấp cao tại TP HCM đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm vì cho rằng kháng cáo không có căn cứ.
Một trong những lập luận để chấp nhận kháng cáo mà TAND Cấp cao tại TP HCM đưa ra là bà N. và ông L. "không có nghĩa vụ" chứng minh nguồn gốc số tiền mua tài sản dù chính HĐXX đã viện dẫn khoản 1, Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự, trong đó quy định rõ: "Đương sự đưa ra yêu cầu thì có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ yêu cầu đó; nếu phản đối yêu cầu của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó là có căn cứ và hợp pháp".
Thêm vào đó, nếu như cấp sơ thẩm từng căn cứ vào thực tế quản lý, khai thác và thu lợi từ khối tài sản, suốt hơn 20 năm qua đều do vợ chồng ông H. thực hiện, để làm 1 trong những cơ sở xác định ai mới là chủ sở hữu thực sự, thì tại phiên phúc thẩm, lập luận này lại bị bác bỏ một cách khó hiểu.

Vợ chồng nguyên đơn N.X.H
HĐXX phúc thẩm cho rằng việc bà N. giao khối tài sản hàng chục tỉ này cho con trai toàn quyền khai thác hưởng lợi mà không cần nhận lại điều gì là… "điều bình thường". Từ đó, toà đã phủ nhận giá trị chứng minh quyền sở hữu của hành vi này. Cách đánh giá mâu thuẫn giữa hai cấp xét xử đã khiến vụ án càng trở nên phức tạp, khi mà chính các căn cứ thực tế lại bị xem nhẹ.
Sau khi bác bỏ toàn bộ các chứng cứ như giấy tờ chuyển tiền từ Đức, giấy tay do ông L. viết xác nhận tài sản là của ông H., giấy tờ mua bán đất… cùng lời khai của các nhân chứng là nhân viên công ty, đối tác làm ăn lâu năm của xưởng may, phiên toà phúc thẩm khép lại bằng việc bác đơn khởi kiện của ông H. Tuy nhiên, vì toà không xác định chủ sở hữu thực sự của khối tài sản này khiến vụ án chưa có hồi kết.
Đến nay, vợ chồng ông H. tiếp tục quản lý, cho thuê toàn bộ tài sản với hàng trăm người thuê. Còn ông L. sau khi có bản án phúc thẩm đã khẳng định mẹ mình, bà N., mới là chủ sở hữu hợp pháp của toàn bộ nhà đất. Mâu thuẫn gia tăng khi ông L. bị cáo buộc đưa người gây sức ép với gia đình ông H. và những người đang thuê tài sản "để thi hành án", khiến công an địa phương phải can thiệp giữ an ninh trật tự.
Bình luận (0)