Chiều 14-9, TAND TP HCM chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - Công ty Bưu chính viễn thông Chi nhánh TP HCM (thuộc Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT), buộc bị đơn Sỹ Truyền Hoàng Ngân (ngụ quận 11, TP HCM) trả hơn 1,1 tỉ đồng tiền cước điện thoại.
Cấp phúc thẩm buộc chị Sỹ Truyền Hoàng Ngân phải trả gần 1,1 tỉ đồng cước điện thoại phát sinh cho VNPT.
Theo HĐXX, hợp đồng cung cấp sử dụng dịch vụ viễn thông được ký kết giữa VNPT và chị Ngân đúng quy định pháp luật nên có hiệu lực. Cả hai bên đều công nhận nội dung mở dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế.
Kết quả giám định các cuộc gọi được thực hiện đúng pháp luật. Số thuê bao của chị Ngân đã đăng ký dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi và nhận được nhiều cuộc gọi trong cùng một thời gian. Đồng thời, tổng đài đã ghi nhận hơn 4.300 cuộc gọi từ thuê bao của chị Ngân đến tổng đài hoặc thuê bao khác. Tại tòa, chị Ngân không đồng ý với kết quả giám định này. Tuy nhiên, phía bị đơn lại không đưa ra được chứng cứ chứng minh kết quả giám định trên là không chính xác.
Cấp phúc thẩm nhận định cấp sơ thẩm chưa làm rõ 2 loại dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế là khác nhau. Theo đó, cước phát sinh không phải là dịch vụ chuyển vùng quốc tế mà từ dịch vụ gọi quốc tế. Việc chị Ngân ký quỹ 5 triệu đồng là để thực hiện dịch vụ chuyển vùng quốc tế. Cấp sơ thẩm cho rằng số tiền này dùng để ký quỹ gọi chuyển vùng quốc tế là không đúng.
Theo đó, khách hàng đăng ký dịch vụ quốc tế phải biết và chịu trách nhiệm về cước phát sinh. Không có cơ sở để nói rằng công ty viễn thông thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin. Từ đó, HĐXX cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, buộc chị Ngân phải thanh toán số tiền cước điện thoại phát sinh.
Theo đơn khởi kiện ngày 1-7-2013, chị Ngân ký hợp đồng sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông với một chi nhánh của viễn thông TP HCM (thuộc VNPT).
Theo hợp đồng, viễn thông TP HCM cung cấp cho chị Ngân 1 sim điện thoại thuê bao trả sau. Ngoài việc gọi trong nước, chị Ngân còn được sử dụng sim này để gọi chuyển vùng quốc tế không bị giới hạn bởi vị trí máy gọi, máy nhận. Khi ký kết hợp đồng, chị Ngân phải ký quỹ 5 triệu đồng, khi ngưng dùng dịch vụ sẽ được nhận lại số tiền này.
Tuy nhiên, chị Ngân phát hiện cước phí tăng bất thường khi vừa hòa mạng. Từ ngày 1 đến ngày 6-7-2013, thuê bao của chị này phát sinh tiền cước gần 1,1 tỉ đồng. Viễn thông TP HCM thông báo cho chị Ngân biết và yêu cầu thanh toán cước phí. Chị Ngân không đồng ý nên VNPT khởi kiện.
Tại phiên tòa sơ thẩm vào tháng 9-2014, chị Ngân thừa nhận đã cho người quen (quốc tịch Pakistan) sử dụng sim điện thoại này nhưng hiện không thể liên lạc được với người đó. Cô tố cáo sự việc với Công an TP HCM nhưng hiện chưa nhận được phản hồi.
Cũng tại phiên tòa này, TAND quận 11 đã bác đơn khởi kiện của VNPT. Tòa sơ thẩm nhận định phải hiểu hợp đồng giữa 2 bên, khi tiền cước phí sử dụng dịch vụ vượt quá 5 triệu đồng thì Công ty Viễn thông TP HCM phải chặn cuộc gọi. Do viễn thông TP HCM không chặn là lỗi thuộc về nguyên đơn nên phải chịu hậu quả, còn phía chị Ngân chỉ phải chịu tiền cước phí trong giới hạn đã ký kết. Không đồng tình với bản án, công ty Viễn thông TP HCM có đơn kháng cáo.
Bình luận (0)