Ngày 23-9, VKSND TP HCM cho biết đã kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm của TAND TP HCM, yêu cầu TAND Cấp cao tại TP xử lại vụ án theo hướng tăng hình phạt từ chung thân lên tử hình đối với các bị cáo Cao Trí Trung (SN 1967), Nguyễn Thành Công (SN 1986), Trương Thị Ngọc Ánh (SN 1966) và Tăng Thành Linh (SN 1976) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các bị cáo trên có hành vi mua bán 158 bánh heroin, tương đương 54,2 kg.
Án tồn đọng
Trong vụ án này, HĐXX cho rằng số lượng ma túy đã được mua bán hết, không còn để giám định hàm lượng cũng như xác định chính xác mỗi người phải chịu trách nhiệm hình sự là bao nhiêu bánh heroin.
Theo đại diện VKSND, việc tòa nhận định hành vi mua bán ma túy của các bị cáo với số lượng đặc biệt lớn nhưng chỉ thông qua lời khai của các bị cáo khi xem xét hình phạt đối với Trung, Nguyên, Ánh và Linh là không phù hợp.
Ngoài vụ án đặc biệt nghiêm trọng này, VKSND TP HCM còn kháng nghị hàng loạt vụ án ma túy khác do tòa xử mức án chưa nghiêm khắc với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội.
Nguyên nhân dẫn đến việc chênh lệch giữa mức án VKSND đề nghị và tòa tuyên là do quan điểm giữa hai cơ quan này không thống nhất, còn tranh cãi về trường hợp nào cần thiết giám định hàm lượng ma túy, trường hợp nào thì không.
Cuối năm 2007, Thông tư liên tịch (TTLT) số 17 của Bộ Công an, TAND Tối cao, VKSND Tối cao và Bộ Tư pháp được ban hành để áp dụng một số quy định về xét xử tội phạm ma túy.
Tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần 1, TTLT số 17 quy định trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất... Tuy nhiên, thời gian qua, cơ quan tiến hành tố tụng các cấp trong quá trình tố tụng không thực hiện việc giám định hàm lượng chất ma túy như quy định trên mà chỉ giám định hàm lượng các chất ma túy thể rắn, lỏng và thuốc phiện. Đến ngày 17-9-2014, TAND Tối cao đã ban hành Công văn số 234/TANDTC-HS và Công văn số 315/TANDTC-PC hướng dẫn TAND các tỉnh, TP về việc “bắt buộc phải giám định hàm lượng trong các chất thu giữ là ma túy, dẫn đến số lượng án ma túy trả đi trả lại rất nhiều lần, án tồn đọng rất lớn.
Ngoài ra, đối với Công văn số 315 hướng dẫn TAND các cấp thực hiện việc giám định hàm lượng ma túy đối với khoản 4, điều 194 Bộ Luật Hình sự (BLHS) thì cấp quận, huyện không gặp khó nhưng cấp TP lại bị vướng. Bởi vì nhiều vụ án, VKSND truy tố theo khoản 4, điều 194, BLHS không được đưa ra xét xử, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ cho VKSND và cơ quan điều tra để điều tra bổ sung, yêu cầu giám định hàm lượng làm kéo dài thời hạn giải quyết.
Không công bằng
Theo VKSND TP HCM, hướng dẫn việc giải quyết các vụ án ma túy phải được thực hiện đúng theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và BLHS là chỉ truy tố trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy chứ không phải là chế phẩm. Các vụ án ma túy có kết luận giám định của cơ quan thẩm quyền khẳng định là “chế phẩm” hoặc “chứa thành phần” mà không xác định rõ trọng lượng chất ma túy; các vụ án thuộc những trường hợp nêu tại khoản 2, điều 1, TTLT 08/2015 và Công văn số 315 thì khi giải quyết, tòa án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định để xác định hàm lượng trên cơ sở xác định trọng lượng chất ma túy làm căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Việc TAND Tối cao hướng dẫn TAND các cấp thực hiện nội dung này thì các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương không thể thực hiện được. Bởi vì, nhiều vụ án ma túy sẽ không được xử lý nếu căn cứ vào kết quả giám định hàm lượng ma túy trong trường hợp trọng lượng ma túy bị thu giữ ít, không đủ khối lượng để giám định hàm lượng.
Đặc biệt, án ma túy thường là án truy xét, không thu được vật chứng, nhiều trường hợp bị khởi tố căn cứ vào lời khai của đồng phạm trong vụ án nên sẽ không có vật chứng để giám định. Việc giám định ma túy phải gửi ra Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an tại Hà Nội nên dẫn đến quá tải, không bảo đảm thời hạn phê chuẩn của các quyết định tố tụng…
Ngoài ra, pháp luật hình sự hiện hành và TTLT số 08/2015 không quy định lấy hàm lượng để căn cứ định tội bị can, bị cáo, trừ 4 trường hợp cần giám định hàm lượng đã được quy định cụ thể tại TTLT số 08/2015. Vì vậy, nếu thực hiện việc giám định hàm lượng ma túy theo Công văn số 315 thì không công bằng giữa người bị truy tố theo khoản 4 so với người bị truy tố ở khoản 2 và 3 không giám định hàm lượng.
Bình luận (0)