L.T.S: Một đất nước phát triển bền vững, lâu dài cần có lực lượng lao động hợp lý để duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cần thiết và tái tạo được nền tảng văn hóa - xã hội của đất nước.
Nhân ngày Dân số Việt Nam (26-12), Báo Người Lao Động giới thiệu đến bạn đọc loạt bài "Phát triển con người Việt Nam bền vững" nằm trong bài nghiên cứu "Phát triển không bền vững về con người - Một thách thức hàng đầu của nhân loại trong thế kỷ 21" của GS-TS Nguyễn Thiện Nhân (đại biểu Quốc hội khóa XV)
Phát triển con người bền vững bao gồm: lao động và dân số bền vững, nâng cao sức khỏe và tầm vóc, nuôi dưỡng và phát huy văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và năng lực nghề nghiệp, công dân hạnh phúc và gia đình hạnh phúc. Ở đây chúng ta tạm thời tập trung vào lao động và dân số bền vững.
Tổng tỉ suất sinh ở các vùng của Việt Nam
Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có Nghị quyết của Đảng cầm quyền về công tác dân số trong tình hình mới (Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017 của Trung ương Đảng) và Chiến lược phát triển dân số đến năm 2030 của Chính phủ (2019) với mục tiêu bảo đảm vững chắc tổng tỉ suất sinh (TTSS) thay thế (2,1 con/phụ nữ trong cuộc đời). Tuy nhiên, kết quả thực hiện nghị quyết và chiến lược này đến nay rất đáng lo ngại.
Mặc dù Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới đã xác định một giải pháp căn bản để bảo đảm vững chắc TTSS thay thế ở Việt Nam, đó là: các địa phương có TTSS trên TTSS thay thế thì phải giảm TTSS; các địa phương có TTSS dưới TTSS thay thế thì phải tăng được TTSS; các địa phương có TTSS bằng TTSS thay thế thì phải ổn định TTSS. Thế nhưng, thực tế đang diễn ra ngược lại.
Cụ thể, 3 vùng trung du - miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ - duyên hải miền Trung có TTSS bằng hoặc trên TTSS thay thế thì lại tiếp tục tăng TTSS. Trong khi đó, 2 vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có TTSS dưới TTSS thay thế lại tiếp tục giảm TTSS. Trong 19 tỉnh, thành phố của Đông và Tây Nam Bộ chỉ có Bình Phước là có TTSS (2,29) lớn hơn TTSS thay thế; còn tất cả 18 tỉnh, thành phố còn lại đều có TTSS dưới TTSS thay thế. Tây Nguyên có TTSS (2,65) cao nhất cả nước năm 2009 thì giảm, song vẫn còn khá cao, trên TTSS thay thế (2,36).
Nếu không có TTSS cao ở 4/6 vùng cả nước bù cho TTSS thấp ở 2/6 vùng thì Việt Nam đã không giữ được TTSS thay thế suốt 15 năm qua (2009 - 2023). Nếu từ nay, năm 2023 đến năm 2030, giảm được TTSS ở 4/6 vùng theo yêu cầu của Nghị quyết 21-NQ/TW mà không nâng được TTSS của 2/6 vùng thì Việt Nam chắc chắn sẽ không duy trì được TTSS thay thế vào năm 2030 và các năm sau.
Cách giải quyết của hầu hết các nước hiện nay trước tình trạng TTSS thấp dưới TTSS thay thế và thiếu lao động kéo dài chủ yếu là nhập cư từ các nước nghèo hơn. Về tổng thể, việc này cũng đang diễn ra ở Việt Nam (các tỉnh, thành phố có TTSS dưới TTSS thay thế bù đắp thiếu hụt lao động bằng lao động nhập cư từ các tỉnh, thành phố khác) nên tình hình TTSS thấp ở 18 tỉnh, thành phố miền Nam trong 15 năm qua không được cải thiện mà tiếp tục xấu đi. Ngoài 18 tỉnh, thành này thì gần đây thêm 4 tỉnh, thành Khánh Hòa, Đà Nẵng, Bình Định, Bình Thuận có TTSS dưới TTSS thay thế.
Những thách thức phải vượt qua
Thực tế biến động TTSS ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra 4 thách thức rất lớn cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững.
Đầu tiên là nguy cơ không đạt được mục tiêu bảo đảm vững chắc TTSS thay thế từ nay đến năm 2030. Tuy về tổng thể bình quân 20 năm qua TTSS cả nước giữ được xấp xỉ TTSS thay thế (2,08/2,1) song việc đã xuất hiện 22 tỉnh, thành phố là "hố đen dân số" với 40% dân số Việt Nam là rất đáng lo ngại. Điển hình năm 2021, TTSS là khoảng 2,1, năm 2022 đã giảm còn 2,01 (Tổng cục Thống kê 2023). Ngoài ra, đã xuất hiện những ứng viên mới: Lâm Đồng với TTSS = 2,06, Bắc Kạn = 2,07, Quảng Nam = 2,09.
Thứ hai, diễn biến bất thường của TTSS ở ĐBSCL cần được nghiên cứu và khắc phục nhanh chóng. Xu hướng cả nước và thế giới là TTSS vùng đô thị thấp hơn nông thôn (năm 2021, TTSS đô thị Việt Nam là 1,64, TTSS nông thôn là 2,4). Thế nhưng, các tỉnh Tây Nam Bộ, vùng cơ bản là nông thôn, lại có TTSS = 1,61 (năm 2022) thấp hơn TTSS của các đô thị cả nước (1,64). Đây là điều bất thường nhưng chưa có nghiên cứu nào lý giải việc này.
ĐBSCL là vùng nông nghiệp có diện tích, sản lượng hàng hóa và giá trị hàng hóa nông nghiệp lớn nhất cả nước, song với TTSS = 1,61, thấp xa TTSS thay thế.
Thứ ba, quá trình đô thị hóa không định hướng phát triển gia đình và phát triển con người bền vững là một nguyên nhân chính của TTSS giảm dưới TTSS thay thế.
Đô thị hóa là xu hướng phát triển chung của nhân loại. Ở Việt Nam, năm 1989 có 19,4% dân số sống ở đô thị, năm 2000 gần 24%, năm 2010 là 30,5% và năm 2022 là 41%. Mục tiêu phát triển đô thị của Việt Nam là năm 2025 có 45% và năm 2030 có ít nhất 50% dân số sống ở các đô thị. TTSS cả nước và TTSS 2 vùng đô thị và nông thôn có quan hệ qua công thức: TTSS cả nước = TTSS đô thị x Tỉ lệ dân số đô thị + TTSS nông thôn x Tỉ lệ dân số nông thôn.
Sử dụng công thức này và các số liệu đã công bố về tỉ lệ đô thị hóa (tỉ lệ dân số đô thị so với dân số cả nước), TTSS đô thị và nông thôn, có thể dự báo TTSS của Việt Nam năm 2025 khoảng 2,06 và năm 2030 là khoảng 1,95.
Để TTSS của cả nước không giảm dưới TTSS thay thế thì các đô thị không thể là các "hố đen dân số" với TTSS < 2,0. Đây chính là yêu cầu mới đặt ra cho mục tiêu quy hoạch đô thị và chính sách phát triển đô thị Việt Nam sau năm 2025.
Thứ tư, nguy cơ tự tiêu vong sau 500 năm. Dân số tương lai của một nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Quy mô dân số ban đầu (hiện tại); Tổng tỉ suất sinh các vùng và toàn quốc; Cơ cấu lứa tuổi, giới tính của dân số quốc gia; Chính sách dân số hiện tại và tương lai; Quy hoạch và phát triển đô thị thân thiện với phát triển gia đình hạnh phúc; Chính sách và quy định của các doanh nghiệp về điều kiện lao động và trả lương…; Chính sách về người nhập cư; Truyền thống văn hóa; Các điều kiện và chi phí cho việc gửi con đi học, khám chữa bệnh, nhà ở…
Do dân số phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vậy và không thể dự báo các yếu tố này từ sau năm 2027 đến năm 3000 nên chúng tôi đã xây dựng một phương pháp dự báo thô dân số Việt Nam, với các giả định về TTSS có thể coi là "hợp lý", khi không có thay đổi chính sách của Chính phủ về phát triển dân số so với giai đoạn 2015 - 2023 và tham khảo sự thay đổi TTSS của Nhật Bản và Hàn Quốc giai đoạn 1970 - 2100.
Theo đó TTSS của Việt Nam năm 2100, 2200, 2300, 2500, 2700, 3000 được dự báo là 1,5; 1,4; 1,3; 1,25; 1,25; 1,25. Một cách sơ bộ, có thể dự báo thô: Năm 2500 dân số Việt Nam ước khoảng 3,6 triệu (Nhật Bản là 0,25 triệu, Hàn Quốc khoảng 0,5 triệu); năm 2700 dân số Việt Nam còn khoảng 0,5 triệu người và năm 3000 khoảng 32,186 người (Nhật Bản 62 người, Hàn Quốc 0 người).
(Còn tiếp)
TTSS và TTSS thay thế
Nếu người phụ nữ trong độ tuổi sinh con sinh bình quân được 2,1 con, thì khi con trưởng thành sẽ có 2 người còn sống khỏe mạnh (bình quân trong 2,1 trẻ được sinh ra, có 0,1 trẻ mất trước tuổi trưởng thành). Tức 2 người con này sẽ thay cha, mẹ tiếp tục lao động khi cha, mẹ không còn khả năng lao động; khi cha, mẹ chết sẽ có 2 người thay thế, làm cho dân số ổn định. Mức sinh bình quân toàn xã hội 2,1 con/phụ nữ được gọi là TTSS thay thế.
Nếu TTSS lớn hơn 2,1 thì số lao động xã hội sẽ tăng lên và dân số sẽ tăng lên. Nếu TTSS dưới 2,1 kéo dài thì số lao động trong xã hội sẽ giảm; sau một thời gian dân số cũng giảm (không tính người nhập cư), sự phát triển đất nước là không bền vững về con người lẫn kinh tế.
Thu nhập cao, TTSS giảm
Thực tế và thống kê trên thế giới đã chỉ rõ khi các nước chuyển từ thu nhập trung bình thấp lên thu nhập trung bình cao thì TTSS giảm từ trên TTSS thay thế xuống dưới TTSS thay thế.
Nguyên nhân vì các điều kiện để có một gia đình hạnh phúc không bảo đảm, việc có gia đình và nuôi con trở thành gánh nặng tài chính và tinh thần, cản trở phát triển nghề nghiệp nên tỉ lệ người trưởng thành muốn kết hôn ngày càng giảm, số cặp vợ chồng muốn có con ngày càng giảm.
Bình luận (0)