Ung thư lưỡi là bệnh thường gặp ở bệnh nhân trên 40 tuổi, chủ yếu do nguyên nhân hút thuốc lá và uống rượu. Bệnh diễn tiến tại chỗ tại vùng, ít khi cho di căn xa. Phẫu thuật và xạ trị vẫn là mô thức điều trị chủ yếu cho bướu nguyên phát và hạch vùng. Việc phối hợp phẫu thuật và xạ trị cho các trường hợp bệnh tiến xa là cách điều trị tiêu chuẩn. Trên lâm sàng, phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn.
Phẫu thuật cắt rộng bướu nguyên phát trong đa số các trường hợp là phẫu thuật cắt nửa lưỡi đối với bướu giai đoạn sớm, cắt gần toàn bộ hay toàn bộ lưỡi với bướu giai đoạn trễ. Khuyết hổng của phẫu thuật ung thư lưỡi thường bao gồm cả các cấu trúc lân cận như sàn miệng, đáy lưỡi, amiđan và vòm khẩu cái, sau phẫu thuật ảnh hưởng nặng đến chức năng nói và nuốt của người bệnh.
Các bác sĩ Việt Nam vừa thực hiện tạo hình khuyết hổng lưỡi, tỉ lệ thành công đạt trên 90% (ảnh minh họa)
Đối với các trường hợp bướu lớn hơn, lan rộng hơn thường phải cắt thêm các cơ quan lân cận chẳng hạn như xương hàm dưới. Vì thế, phục hồi chức năng của lưỡi sau phẫu thuật điều trị ung thư là rất khó khăn bởi các chức năng này được thực hiện bởi các cơ riêng của lưỡi.
Tại Việt Nam, trước năm 2019, chưa có công trình nào được công bố về việc tạo hình khuyết hổng lưỡi lớn gần toàn bộ hay toàn bộ sau phẫu trị ung thư lưỡi. Giới y khoa trong nước vẫn đang tìm đáp án cho câu hỏi "Liệu phương pháp tạo hình khuyết hổng lưỡi bằng vạt tự do hay tại vùng có an toàn về mặt ung thư không và giúp phục hồi chức năng - thẩm mỹ của lưỡi như thế nào trong điều kiện y học Việt Nam?".
Trăn trở với việc tìm lời giải câu hỏi nêu trên, TS.BS Nguyễn Anh Khôi và các cộng sự ở Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM đã vào cuộc thực hiện đề tài nghiên cứu "Tái tạo khuyết hổng gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi sau phẫu thuật trị ung thư". Nhóm nghiên cứu đã thực hiện tạo hình khuyết hổng lưỡi bằng các loại vạt (vạt da cơ ngực lớn, vạt động mạch trên đòn, vạt cẳng tay quay, vạt đùi trước ngoài) cho 30 bệnh nhân (26 nam, 4 nữ).
Có 23 bệnh nhân (77%) trên 40 tuổi, và có 7 bệnh nhân dưới 40 tuổi (23%). Bệnh nhân lớn nhất là 73 tuổi, trẻ nhất là 30 tuổi. Tất cả bệnh nhân đến khám đều là do sang thương ở lưỡi, sùi hoặc loét, không lành. Trong số đó có 20 bệnh nhân bị đau nhiều tại vị trí của sang thương. Tất cả đều ở giai đoạn trễ (giai đoạn III và IV) của bệnh.
"Bệnh nhân sau khi trải qua phẫu thuật được tập hướng dẫn nuốt và nói (do bác sĩ vật lý trị liệu hướng dẫn cho bệnh nhân), ở 4 lĩnh vực chính gồm: hô hấp, vận động, nuốt và giao tiếp. Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, chức năng nói ở các bệnh nhân có sự cải thiện rõ rệt, thậm chí có đến 17 người có thể giao tiếp tốt. Đa số các trường hợp bệnh nhân đều có thể ăn uống được thức ăn sệt, hầu hết vẫn cảm giác khó khăn khi ăn thức ăn đặc. Có 1 trường hợp vẫn chọn lựa nhóm thức uống lỏng do bị khô miệng" - BS Nguyễn Anh Khôi thông tin.
Với các kết quả thu được, nhóm nghiên cứu cho rằng đây là một tin vui cho bệnh nhân ung thư lưỡi, bỡi việc tái tạo khuyết hổng gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi có tỉ lệ thành công cao, giúp phục hồi được chức năng của lưỡi sau tái tạo (cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư), biến chứng phẫu thuật là không đáng kể.
Quá trình thực hiện phẫu thuật có thể triển khai ứng dụng tại các cơ sở y tế có sẵn đội ngũ chuyên môn được đào tạo về kỹ thuật vi phẫu hoặc các trung tâm chuyên ngành về ung bướu.
Bình luận (0)