Công trình được thực hiện tại một bệnh viện được chính phủ Trung Quốc chỉ định chuyên tiếp nhận điều trị cho bệnh nhân nhiễm Covid-19 nặng hoặc nguy kịch - Bệnh viện Tongji tại Vũ Hán. Công trình này ít nhiều đã đóng góp dữ liệu quan trọng liên quan đến công tác điều trị Covid-19 khi đánh giá 113 trường hợp tử vong đã được mổ tử thi.
Hình ảnh CT ngực ở những bệnh nhân tử vong do nhiễm COVID-19 tại Bệnh viện Tongji ở Vũ Hán, Trung Quốc
Công trình nghiên cứu có tên "Clinical characteristics of 113 deceased patients with coronavirus disease 2019: retrospective study" được đăng trên Tạp chí BMJ, ngày 26-3-2020.
Nhóm nghiên cứu đã đánh giá toàn diện các dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân tử vong và nhóm bệnh nhân hồi phục trong số những người đã được chẩn đoán xác định nhiễm Covid-19 và được chuyển về khu cách ly điều trị của Bệnh viện Tongji. Nhóm nghiên cứu đã so sánh các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, xét nghiệm và X quang của bệnh nhân theo các kết quả điều trị khác nhau.
Dưới đây là tóm lược những kết quả chính của công trình nghiên cứu này:
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân tử vong (68 tuổi) lớn hơn đáng kể so với nhóm hồi phục (51 tuổi). Giới tính nam chiếm ưu thế ở những bệnh nhân tử vong (83; 73%) so với những bệnh nhân hồi phục (88; 55%). Bệnh tăng huyết áp mạn tính và các bệnh tim mạch khác kèm theo được ghi nhận là thường gặp hơn ở những nhóm tử vong (54 (48%) và 16 (14%)) so với bệnh nhân hồi phục (39 (24%) và 7 (4%)). Khó thở, tức ngực và rối loạn ý thức là những dấu hiệu lâm sàng phổ biến hơn ở những bệnh nhân tử vong (70 (62%), 55 (49%) và 25 (22%)) so với những bệnh nhân hồi phục (50 (31%), 48 (30% ) và 1 (1%)).
Thời gian trung bình từ lúc khởi phát bệnh đến khi tử vong là 16 ngày (dao động từ 12 đến 20 ngày). Tăng bạch cầu ghi nhận ở 56 (50%) bệnh nhân tử vong và 6 (4%) hồi phục, giảm bạch cầu cũng được ghi nhận ở cả hai nhóm lần lượt là ở 103 (91%) và 76 (47%).
Các biến chứng thường gặp được ghi nhận khá phổ biến ở những bệnh nhân tử vong bao gồm: hội chứng suy hô hấp cấp tính (113; 100%), suy hô hấp type I (18/35; 51%), nhiễm trùng huyết (113; 100%), chấn thương tim cấp tính (72/94; 77 %), suy tim (41/83; 49%), kiềm máu (14/35; 40%), tăng kali máu (42; 37%), chấn thương thận cấp tính (28; 25%) và bệnh não do thiếu oxy (23; 20% ). Bệnh nhân mắc bệnh tim mạch có nhiều khả năng bị biến chứng tim. Bất kể tiền sử bệnh tim mạch, chấn thương tim cấp tính và suy tim là phổ biến hơn ở những bệnh nhân đã tử vong.
Sự xuất hiện các biến chứng về hô hấp, tim và thần kinh có liên quan mạnh mẽ đến tiên lượng xấu ở những bệnh nhân nhiễm Covid-19. Bệnh nhân mắc bệnh tim mạch có nhiều khả năng bị biến chứng tim, nhưng biến chứng tim mạch không chỉ xảy ra ở nhóm bệnh nhân tử vong có bệnh lý tim mạch trước đó mà cả ở những bệnh nhân không mắc bệnh tim mạch, do đó biến chứng tim ở nhóm bệnh nhân tử vong không thể hoàn toàn quy cho bệnh tim mạch đã có sẵn.
Thời gian trung bình từ khi xuất hiện triệu chứng đến lúc tử vong (nhóm tử vong) là 16 ngày và thời gian trung bình từ triệu chứng đầu tiên đến lúc xuất viện (nhóm hồi phục) là 26 ngày. Sự tiến triển của viêm phổi và viêm nhiễm toàn thân thường xảy ra trong hai tuần đầu tiên và có thể quyết định sự tiến triển của bệnh (bệnh tự phục hồi hoặc tiến triển nặng) và kết quả của bệnh (tử vong hoặc sống sót).
Có ít bệnh nhân hơn trong nhóm tử vong so với nhóm hồi phục được điều trị bằng một thuốc kháng virus (antiviral monotherapy) hoặc thuốc kháng virus kết hợp (combination antiviral therapy), cũng như hít interferon α. Tình trạng viêm phổi nặng và cơn bão cytokine được quan sát thấy ở nhóm tử vong, trong đó có nhiều bệnh nhân đã được điều trị bằng glucocorticoid. Nhiều bệnh nhân trong nhóm tử vong được giúp thở do thiếu oxy máu nặng.
Tuy nhiên, nhóm tác giả khẳng định không thể kết luận từ nghiên cứu này về tác dụng của thuốc kháng virus, sử dụng steroid có lợi hay không, các tác giả đề nghị những vấn đề này cần được nghiên cứu thêm.
Bình luận (0)