Trên thế giới, từ năm 1996, phẫu thuật tuyến giáp không còn giới hạn ở kỹ thuật mổ mở truyền thống mà được phát triển bởi kỹ thuật nội soi với nhiều ưu điểm như ít xâm lấn, không để lại sẹo xấu gây mất thẩm mỹ, ảnh hưởng đến sinh hoạt, giao tiếp của người bệnh.
Ưu điểm vượt trội
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi trong điều trị bệnh lý bướu tuyến giáp đã được triển khai từ năm 2004. Trong thời gian đầu, phẫu thuật nội soi tuyến giáp chỉ dừng lại ở việc bóc nhân hay cắt thùy giáp trong các trường hợp bướu giáp đơn nhân có kích thước nhỏ. Cho đến nay, chỉ định điều trị được mở rộng, áp dụng cho bướu giáp đa nhân 2 thùy, các trường hợp cường giáp, basedow ổn và ung thư tuyến giáp ở giai đoạn sớm. Tùy theo thương tổn, bệnh nhân được cắt một thùy hoặc cả 2 thùy của tuyến giáp. So với kỹ thuật mổ mở truyền thống, phẫu thuật tuyến giáp qua nội soi có nhiều ưu điểm vượt trội, đặc biệt là về mặt thẩm mỹ. Săn sóc hậu phẫu tốt là một trong những khâu quan trọng giúp người bệnh phục hồi nhanh chóng.
Việc săn sóc sau phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi tập trung vào các vấn đề sau:
Tầm soát các tai biến, biến chứng
Cũng như mổ mở, phẫu thuật tuyến giáp nội soi có thể gặp một số tai biến, biến chứng trong và sau khi mổ. Vì thế, sau phẫu thuật, bệnh nhân được thăm khám kỹ càng để tầm soát các tai biến, biến chứng phẫu thuật. Các biến chứng được chia làm 2 nhóm: sớm và muộn. Các biến chứng sớm thường xảy ra ngay hoặc trong vòng một vài ngày sau mổ, trong khi các biến chứng muộn có thể xuất hiện sau vài tháng. Trong nhóm biến chứng sớm, các vấn đề được tầm soát: cơn bão giáp, chảy máu sau mổ, tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản và thần kinh thanh quản trên, tổn thương các tuyến cận giáp, nhiễm trùng. Trong nhóm biến chứng muộn, các vấn đề được tầm soát gồm: suy giáp do phần tuyến giáp lành còn lại không bảo đảm được chức năng cần thiết, u giáp tái phát, cường giáp tái phát.
Giúp bệnh nhân mau hồi phục
Với đặc điểm ít xâm lấn, các điều trị hỗ trợ sau mổ cho bệnh nhân được phẫu thuật tuyến giáp nội soi khá đơn giản. Về kháng sinh, đây là một phẫu thuật sạch nên có thể không cần dùng kháng sinh sau mổ. Kháng sinh chỉ được khuyến cáo trong các trường hợp có yếu tố nguy cơ cao như người bệnh có kèm bệnh lý đái tháo đường. Giảm đau sau mổ đường tiêm chỉ cần trong 1-2 ngày sau mổ. Sau đó, bệnh nhân được chuyển sang dùng giảm đau đường uống. Về dinh dưỡng, bệnh nhân có thể ăn uống lại sau khi về phòng bệnh. Chế độ ăn gần như bình thường và không khác so biệt với trước mổ. Hầu hết bệnh nhân được phẫu thuật nội soi tuyến giáp đều được đặt ống dẫn lưu. Ống dẫn lưu này được rút bỏ sau 24 giờ sau mổ. Khác đường mổ dài ở vùng cổ trong mổ mở, bệnh nhân được phẫu thuật tuyến giáp nội soi chỉ có 3 vết mổ nhỏ với độ dài từ 0,5-1 cm. Vì thế, việc chăm sóc vết mổ đơn giản hơn nhiều và chỉ được cắt sau mổ 7 ngày. Cuối cùng, bệnh nhân có thể xuất viện trong vòng 48-72 giờ sau mổ.
Theo dõi định kỳ
Sau khi xuất viện, người bệnh được hẹn tái khám và theo dõi định kỳ với các mục đích sau:
Tái khám sau 7 ngày, để cắt chỉ, tầm soát lần cuối các biến chứng sớm nếu có và cho người bệnh biết kết quả giải phẫu bệnh của khối u tuyến giáp đã cắt.
Tái khám định kỳ sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, để tầm soát các biến chứng muộn để có các bước điều trị kịp thời và thích hợp.
Bình luận (0)