Thời điểm đó đánh dấu cột mốc lịch sử của ngành hỗ trợ sinh sản nước ta.
Đến nay, Việt Nam đã có hơn 50 trung tâm hỗ trợ sinh sản, cập nhật đầy đủ hầu hết kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới. Tỉ lệ thành công của IVF ngày càng cao, có nơi đạt tới 70% - ngang tầm các trung tâm lớn trên thế giới.
Sự phát triển của IVF không chỉ giúp giải quyết các vấn đề vô sinh, bệnh lý hiếm gặp mà còn đưa hỗ trợ sinh sản trở thành một trong những lĩnh vực y học phát triển nhanh nhất tại Việt Nam. Trong tương lai, cùng với việc cải tiến công nghệ, kỹ thuật này sẽ tiếp tục hỗ trợ sàng lọc, phát hiện sớm và loại bỏ các bệnh lý di truyền ngay từ giai đoạn đầu.
Cùng với những bước tiến vượt bậc trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, vừa qua, pháp luật cũng đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn và nhu cầu xã hội. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 207/2025, quy định về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Nghị định 207/2025 cho phép phụ nữ độc thân sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản theo nguyện vọng cá nhân (trước đây chỉ cho phép khi có chỉ định y tế). Chính sách này được đánh giá là nhân văn, nhân đạo, có cơ sở khoa học và không quá khó thực hiện, bởi các trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn hiện nay đều có ngân hàng tinh trùng.
Chính sách mới mở ra cơ hội làm mẹ cho những phụ nữ không có điều kiện kết hôn nhưng khao khát có con, nhất là trong bối cảnh mức sinh ở Việt Nam đang giảm. Để bảo đảm tính nhân văn và tránh rắc rối pháp lý về sau, quy trình hiến - nhận tinh trùng được thực hiện trên nguyên tắc vô danh. Các trung tâm hỗ trợ sinh sản phải mã hóa, hoán đổi mẫu để trẻ sinh ra không thể truy được thông tin về cha sinh học.
Thực tế, nhiều nghiên cứu và quá trình theo dõi gần 30 năm qua cho thấy trẻ ra đời từ phương pháp IVF phát triển hoàn toàn bình thường về thể chất và trí tuệ, không có sự khác biệt hay tỉ lệ bất thường cao hơn so với trẻ sinh tự nhiên. Chức năng sinh sản và trí tuệ của các em đến nay vẫn ổn định. Trên thế giới, phương pháp này đã được áp dụng hơn 50 năm, kỹ thuật ngày càng hoàn thiện và chưa ghi nhận vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần duy trì sự cẩn trọng để kịp thời xử lý nếu phát sinh rủi ro.
Dù kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở Việt Nam đã phát triển mạnh và chi phí được xem là thấp hơn so với nhiều quốc gia, song vẫn là gánh nặng tài chính với không ít gia đình. Hiện nay, bảo hiểm y tế chưa chi trả cho các dịch vụ hỗ trợ sinh sản. Đây là trăn trở lớn của cả bệnh nhân lẫn các chuyên gia.
Nếu các dịch vụ hỗ trợ sinh sản được đưa vào danh mục chi trả của bảo hiểm y tế, người vô sinh - hiếm muộn sẽ bớt áp lực kinh tế, đồng thời khuyến khích các cặp vợ chồng tiếp cận điều trị, góp phần cải thiện tỉ lệ sinh. Trong khi nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách này, Việt Nam mới dừng ở mức xem xét. Vì vậy, chúng ta cần có những điều chỉnh cho phù hợp trong tương lai.
Ngọc Dung ghi
Bình luận (0)