Nick Út, Peter Arnett và George Lewis - 3 phóng viên chiến trường Mỹ trong chiến tranh Việt Nam - vừa có cuộc hội ngộ đặc biệt với những nhà báo chiến trường Việt Nam tại Hà Nội.
Quyết giữ vững tôn chỉ
Cùng đồng nghiệp ôn lại một thời lửa đạn, ông George Lewis, phóng viên hãng NBC ở Việt Nam trong 3 năm (1969- 1972), cho biết chiến tranh Việt Nam trong những năm 1960 và 1970 là cuộc chiến tranh đầu tiên mà báo chí Mỹ đưa tin với quy mô lớn. Khi đó, người người, nhà nhà đều theo dõi cuộc chiến qua các phương tiện truyền thông. Vì thế, hình ảnh chân thực được truyền về từ chiến trường đã tác động lớn đến công chúng Mỹ, giúp họ hiểu hơn về sự thật chiến tranh ở Việt Nam.
Nói về bức ảnh “Em bé Napalm” nổi tiếng được chụp tại huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh ngày 8-6-1972, tác giả Nick Út, phóng viên hãng AP thời điểm đó, cho biết chỉ hơn 1 giờ sau khi chụp, bức ảnh đã nhanh chóng được đăng tải trên nhiều kênh truyền hình, báo in. Ngày hôm sau, biểu tình yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam lan rộng tại nhiều thành phố lớn trên thế giới.
“Nhiều lần, chính phủ Mỹ đã tìm cách tạo áp lực đối với báo chí, yêu cầu chỉ đạo phóng viên hiện trường viết “nhẹ tay” nhưng lãnh đạo các hãng truyền thông quyết giữ vững tôn chỉ là phản ánh sự thật” - ông Lewis nhớ lại.
Như một người lính
Từ những trải nghiệm của mình, ông Peter Arnett, phóng viên AP tác nghiệp ở Việt Nam trong suốt 13 năm (1962-1975), thẳng thắn: Bài học mà chúng tôi rút ra khi đến Việt Nam là không thể tin tưởng vào chính phủ Mỹ về vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Nhiều sĩ quan trẻ của Mỹ tin rằng sang Việt Nam là để bảo vệ miền Nam Việt Nam khỏi cộng sản và nhiều người đã hy sinh. Tôi từng chứng kiến những trận đánh có hơn 200 lính Mỹ thiệt mạng và đã kể câu chuyện đó thông qua những tác phẩm của mình” - ông Arnett hồi tưởng. Theo ông, lúc đó có tới 20 phóng viên của hãng AP làm việc tại chiến trường Việt Nam. “Các đồng nghiệp của tôi đều dũng cảm, cam kết đưa tin trung thực về những gì diễn ra ở Việt Nam. Để đạt được điều đó, không ít người phải hy sinh” - ông Arnett nói.
Chia sẻ với các đồng nghiệp phía bên kia chiến tuyến, Thiếu tướng Phan Khắc Hải, phóng viên chiến trường từ năm 1964 đến năm 1971, kể lúc đó, các phóng viên Việt Nam phải làm việc trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, phương tiện tác nghiệp chỉ có cây bút chì và cuốn sổ tay. Trong khi phóng viên nước ngoài sau mỗi đợt đi thực tế lại trở về Sài Gòn viết bài và thư giãn thì phóng viên chiến trường Việt Nam phải hành quân như một người lính dưới sự càn quét của bom đạn.
“Vậy các ông viết bài khi nào?” - trước câu hỏi của những đồng nghiệp người Mỹ, Thiếu tướng Hải hóm hỉnh: “Bí quyết viết bài của chúng tôi chính là bí quyết Việt Nam thắng Mỹ - đó là đánh du kích”.
Tưởng nhớ đến 320 nhà báo Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến, nhà báo Văn Sắc, phóng viên ảnh của Thông Tấn Xã Việt Nam, nói: “Mặc dù ở hai chiến tuyến khác nhau, mục tiêu của phóng viên chiến trường cả Mỹ và Việt Nam là phản ánh cuộc chiến một cách chân thực nhất và nhiều người đã hy sinh vì điều đó”.
Kỳ vọng vào quan hệ Việt - Mỹ
Trở lại Việt Nam rất nhiều lần sau chiến tranh, ông Peter Arnett nhận xét từ năm 2000 trở lại đây, Việt Nam có những thay đổi rõ rệt, những vết tích chiến tranh đã mờ dần. Ông cho rằng mối quan hệ giữa 2 chính phủ và nhân dân hai nước ngày càng tốt lên thấy rõ. “Hai bên có quan điểm khác nhau về cách vận hành chính phủ nên không tránh khỏi việc quan chức Mỹ thường nhắc đến những vấn đề nhân quyền, tự do báo chí... nhưng họ đều hiểu rằng quan hệ hai nước đang tốt lên và tốt hơn cho hòa bình của khu vực và thế giới” - ông Arnett nói.
Bình luận (0)