Năm 1956, khi mới đặt chân vào giảng đường ĐH, sinh viên Khoa Văn chúng tôi - cả Sư phạm và Tổng hợp cùng lên lớp chung - may mắn được học một số buổi về lịch sử cổ đại Việt Nam do thầy Đào Duy Anh lên lớp. Bị cuốn hút bởi nội dung uyên bác và cách giảng dạy điềm đạm, cẩn trọng của thầy, vài người chúng tôi hễ có dịp là tranh thủ lén dự nghe các buổi giảng khác của thầy cho sinh viên Khoa Sử. Gần 60 năm đã qua đi, chúng tôi vẫn nhớ mãi thầy cũng như những người cha tinh thần khác.
Tích cực nhập cuộc
Có người bảo quê thầy Đào Duy Anh ở Thanh Hóa, hóa ra không phải. Gần thầy mới được biết nguyên quán của thầy là Hà Đông, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Nội). Do nghèo và muốn đổi đời nên gia đình chuyển vào Thanh Hóa từ đời ông nội. Dù gia cảnh không khấm khá hơn bao nhiêu nhưng ông bà thân sinh của thầy vẫn hết sức tằn tiện để có tiền cho con ăn học. Sáu năm học chữ Hán, 11 tuổi mới vào trường tiểu học nhưng 19 tuổi, thầy đã tốt nghiệp Trường Quốc học Huế.
Sống trong hoàn cảnh nô lệ, như mọi thanh niên trí thức chân chính khác, Đào Duy Anh hăng hái tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp. Thầy gần gũi, học hỏi cụ Phan Bội Châu. Thầy cộng tác mật thiết với cụ Huỳnh Thúc Kháng, Chủ nhiệm Báo Tiếng Dân và được giao làm thư ký tòa soạn.
Năm 23 tuổi (1927), thầy tham gia thành lập Đảng Tân Việt. Trong ban thường vụ của tổ chức này có nhà cách mạng về sau rất nổi tiếng: ông Phan Đăng Lưu. Đào Duy Anh được cử làm Tổng Bí thư của Tân Việt Cách mạng Đảng.
Louis Marty, quan chức thực dân khét tiếng tàn ác của Pháp, đã ra tay đàn áp tổ chức chính trị này. Thầy Đào Duy Anh cùng người vợ chưa cưới, bà Trần Như Mân, bị bắt giam hơn 1 năm. Cuối năm 1930, 2 người được phóng thích với án treo 3 năm tù. Từ đấy, trong không khí khủng bố ngột ngạt của chính quyền thuộc địa, Đào Duy Anh chuyển hẳn sang hoạt động văn hóa với tâm niệm: Góp phần nâng cao dân trí. Xuất phát từ động cơ cao đẹp ấy, thầy đã lấy bút hiệu là Vệ Thạch.
Thế nhưng, sau Cách mạng Tháng Tám 1945, trong không khí sôi nổi chung của cả nước, Đào Duy Anh tích cực nhập cuộc. Thầy nhận danh hiệu giáo sư ĐH Văn khoa (1945) và tham gia Ban Vận động Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946).
Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, thầy hoạt động tại Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Mấy năm sau (1950), thầy ra Việt Bắc, công tác trong Bộ Giáo dục, phụ trách Ban Sử Địa thuộc Vụ Văn học Nghệ thuật. Năm 1953, thầy trở lại với bục giảng, là giáo sư sử học lớp dự bị ĐH ở Thanh Hóa.
Tính đến lúc qua đời (1-4-1988), trong hơn 60 năm, Đào Duy Anh say sưa, miệt mài lao động và đóng góp xuất sắc trong nhiều lĩnh vực văn hóa dân tộc. Trong đó, nổi trội hơn cả là các bộ môn từ điển, lịch sử và dịch thuật.
Những trước tác vô giá
Cho đến nay, nói đến lĩnh vực từ điển - loại sách công cụ quan trọng hàng đầu, học giới vẫn phải trân trọng ghi công nhà từ điển học Đào Duy Anh. Ông đã biên soạn xong bộ “Hán Việt từ điển” (40.000 từ) lúc mới 27 tuổi, chỉ trong hơn 1 năm (in năm 1932). Bộ “Pháp Việt từ điển” quy mô đồ sộ hơn mà cũng chỉ sau gần 3 năm đã hoàn thành (in năm 1936). 40 năm sau, thầy lại cho công bố một bộ từ điển độc đáo, chuyên dụng: “Từ điển Truyện Kiều” (1974).
Khi cùng các học giả Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Hoài Thanh... nhận nhiệm vụ giáo sư ĐH Văn khoa tại Hà Nội (1946), thầy Đào Duy Anh chuyên tâm nhiều hơn đến lĩnh vực lịch sử. Thực ra, trước đó, thầy đã có những công trình nghiên cứu đặc sắc về lĩnh vực này, như: “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938), “Trung Hoa sử cương” (1944) nhưng chỉ từ đây, thầy mới dành nhiều thời gian, công sức vào chính sử.
Ba công trình quan trọng nhất của thầy: bộ “Cổ sử Việt Nam” (1955, 8 chương, non 400 trang), bộ “Lịch sử Việt Nam” (1957, 56 chương, hơn 900 trang) và bộ “Đất nước Việt Nam qua các đời” (1964, 15 chương, hơn 500 trang) không chỉ được giới trí thức trong nước hoan nghênh mà nhiều học giả thế giới cũng đánh giá cao. Viện Đông phương học - Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và Viện Khoa học Trung Quốc đã cho dịch, xuất bản rất sớm.
Một lĩnh vực khác, thầy cũng đã có những đóng góp thầm lặng nhưng rất có ý nghĩa: dịch thuật và hiệu đính. Chỉ tính trong 6 năm, từ đầu năm 1958 đến lúc về hưu (1964), khi thôi chức Chủ nhiệm Khoa Sử ở Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội và chuyển về công tác ở Viện Sử học, thầy tham gia dịch và chịu trách nhiệm hiệu đính những bản dịch do các cụ nho học đã thực hiện. Đó là hàng loạt tài liệu sử học rất quý của người xưa, tất cả trên dưới 10.000 trang in.
Có lẽ cũng không cần nói thêm dài dòng về các công trình khác của thầy thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học xã hội. Chẳng hạn, về triết học như “Khổng giáo phê bình tiểu luận” (1943), về ngôn ngữ như “Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến” (1975), về văn học như “Khảo luận về Truyện Kiều” (1958). Và tác phẩm cuối cùng, cuốn hồi ký “Nhớ nghĩ chiều hôm” (khởi thảo năm 1980, xuất bản năm 1988) của thầy khiến nhiều thế hệ người đọc xúc động về giọng kể từ tốn, điềm đạm cũng như về thái độ trung thực, đúng đắn, bình tĩnh…
Trong một đêm khó ngủ của tuổi 84, Đào Duy Anh đã nhớ lại 2 câu thơ tâm sự của Nguyễn Du “Bất tri tam bách...” và thầy đã cảm hứng, bộc bạch tâm sự bản thân: “Ông hỏi đời sau ai khóc mình?/ Mà nay bốn bể lại lừng danh/Cho hay hết thảy đều mây nổi/Còn với non sông một chút tình”.
Tình của thầy đối với lịch sử dân tộc và với văn hóa dân tộc, chúng ta ai cũng trân trọng. Và những trước tác vô giá của thầy, chắc chắn không phải là phù - vân - mây - nổi. Chúng sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong kho tàng học thuật của nước nhà. Thầy hết sức xứng đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 năm 2000 - mà nếu trao tặng đợt 1 mới thật hợp lẽ. Thầy cũng xứng đáng với sự đánh giá của “Từ điển Bách khoa Larousse” (Pháp, 1968): “Đào Duy Anh là một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư hiện đại”.
“Trên phương diện nào, kiến giải của ông cũng chi li thấu đáo, đi đến tận ngọn ngành sự việc và luôn luôn lấy thực chứng làm nền tảng” - Từ điển Văn học bộ mới (NXB Thế giới, 2005).
Kỳ tới: Nghiêm Toản - Suốt đời tự học
Bình luận (0)