Vụ việc chủ nhà hàng tiệc cưới Tâm Phúc (phường Mường Thanh, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) bị khách đặt cỗ đám cưới rồi "bỏ bom" 150 mâm cỗ gây thiệt hại khoảng 200 triệu đồng đang gây xôn xao dư luận.
Về việc này, luật sư Nguyễn Anh Thơm, Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), cho rằng đây là vụ việc hi hữu xảy ra trong giao dịch dân sự. Tình trạng đặt hàng nhưng không lấy hàng đã xảy ra trong xã hội hiện nay nhưng việc đặt cỗ cưới mà không thực hiện thì cũng hiếm khi xảy ra.
Nhà hàng ở TP Điện Biên Phủ, nơi xảy ra sự việc hi hữu
Trong vụ việc này, khách hàng đặt cỗ cưới nhưng không thực hiện hợp đồng làm cho chủ nhà hàng lâm vào tình trạng khốn đốn khi cỗ cưới vẫn còn nguyên mà không có người ăn. Sau đó, chủ nhà hàng đã kêu gọi cộng đồng mạng mua đồ ăn ủng hộ và đã thu về được một số tiền nhỏ để bù đắp một phần thiệt hại.
"Do tin tưởng và quan hệ quen biết nên chủ nhà hàng đã chủ quan thỏa thuận miệng, không lập hợp đồng và đặt cọc tiền làm cỗ cưới nên thiệt hại xảy ra khi khách hàng không đến ăn là rất lớn. Đây cũng là bài học cảnh báo trong việc giao kết hợp đồng dân sự phải tìm hiểu kỹ đối tác, lập văn bản và phải có biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng (đặt cọc) đối với giao dịch có giá trị lớn..."- luật sư Nguyễn Anh Thơm phân tích.
Cũng theo luật sư Thơm, theo Điều 119, Bộ luật Dân sự 2015 quy định thì hình thức của giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Do vậy, hợp đồng đặt cỗ cưới vẫn có giá trị pháp lý, hai bên phải thực hiện đúng các nghĩa vụ theo nội dung hợp đồng.
"Chúng ta có thể hiểu, việc bên bán hàng đã thảo thuận với bên mua hàng, hai bên đã thỏa thuận thành công nhưng khi thực hiện việc nhận hàng, giao hàng và thanh toán, thu tiền thi bên đặt hàng không thực hiện việc giao dịch đó. Khi thực hiện việc giao dịch việc đặt hàng đó có nghĩa là hai bên đã thỏa thuận với nhau về hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng có thể được thực hiện bằng lời nói, bằng hành vi, bằng văn bản cụ thể"- luật sư Thơm nói.
Thực đơn mâm cỗ cưới đã được chuẩn bị công phu nhưng chẳng có ai tới ăn cưới
Phân tích thêm, theo luật sư Thơm, nếu bên đặt hàng đã đặt hàng nhưng không thực hiện việc thanh toán và nhận hàng đã đặt thì theo pháp luật dân sự người đặt hàng đó đã vi phạm quy định về nghĩa vụ của hợp đồng. Theo quy định pháp luật hiện hành thì bên đặt hàng sẽ phải buộc thực hiện việc nhận và thanh toán như đã thỏa thuận. Và phải chịu thêm chi phí bảo quản và vận chuyển phát sinh nếu có. Nếu chậm thực hiện việc nhận hàng mà hàng hóa có hư hỏng việc chậm nhận đó do lỗi của bên nhận hàng thì cũng phải chịu các chi phí phát sinh nếu có.
"Do đó, nếu chủ nhà hàng và khách không thỏa thuận được về việc thanh toán tiền theo hợp đồng thì có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân để giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự và buộc bên vi phạm phải có trách nhiệm"- luật sư Thơm nêu quan điểm.
Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, một cô gái ở huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) đến nhà hàng Tâm Phúc ở số 29 phường Mường Thanh, TP Điện Biên Phủ đặt 150 mâm cỗ cưới và yêu cầu nhà hàng hỗ trợ làm rạp cưới (phông bạt, trang trí, bàn ghế…).
Khách hàng và chủ quán có mối quen biết nên không làm hoá đơn cũng như nhận tiền đặt cọc. Do không gian nhà hàng chật hẹp nên hai bên thống nhất bắc rạp tại khu vực trước cửa nhà hàng. Chủ nhà hàng còn mượn phần hành lang của hàng xóm xung quanh để dựng rạp cưới.
Theo dự kiến, trưa 30-9, đám cưới sẽ diễn ra như đã thống nhất. Tuy nhiên, từ sáng sớm cho đến 14 giờ chiều cùng ngày, nhà hàng không thấy bất cứ vị khách nào đến dự tiệc, không có chú rể, cô dâu. Ngay sau đó, nhà hàng đã trình báo Công an phường Mường Thanh.
Phông bạt đám cưới được trang hoàng
Trưa ngày 1-10, một lãnh đạo Công an TP Điện Biên Phủ cho biết cơ quan này đang thụ lý vụ việc và xác định được vị khách đã "bỏ bom" 150 mâm cỗ cưới, khi nào làm rõ vụ việc sẽ thông tin tới báo chí.
Trách nhiệm chậm thanh toán tiền do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng được quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự cụ thể như sau:
Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền:
1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.
Bình luận (0)