Nhiều chính sách mới về quốc tịch đã được Chính phủ đề xuất bổ sung tại dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trình Quốc hội sáng 17-5.
Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã thể chế hóa các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình dự án luật. Ảnh: Phạm Thắng
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, Chính phủ thấy rằng một số quy định liên quan đến thủ tục nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam chưa thực sự tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được có quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài; chưa thu hút được nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Cũng theo cơ quan soạn thảo, Luật Quốc tịch Việt Nam giới hạn các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam. Cụ thể, người đã mất quốc tịch Việt Nam có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong những trường hợp sau: Xin hồi hương về Việt Nam; có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện đầu tư tại Việt Nam; đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập quốc tịch nước ngoài.
Như vậy, đối với trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam không thuộc các trường hợp nêu trên thì không được xem xét cho trở lại quốc tịch Việt Nam. Cơ quan soạn thảo thấy rằng cần thiết nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó "nới lỏng" chính sách cho nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Qua đó, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Về một số nội dung cụ thể, Chính phủ đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về trở lại quốc tịch Việt Nam. Theo đó, sửa đổi theo hướng bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch. Như vậy, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam. Dự thảo luật cũng sửa đổi theo hướng bỏ quy định "Người được trở lại quốc tịch Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài" và trường hợp đặc biệt được giữ quốc tịch nước ngoài.
Chính phủ đề xuất sẽ quy định chi tiết các trường hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài chỉ cần đáp ứng hai điều kiện, gồm: Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi trở lại quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Phạm Thắng
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết Ủy ban cơ bản nhất trí với nội dung sửa đổi, bổ sung của luật theo hướng không quy định cụ thể về các trường hợp được xem xét trở lại quốc tịch Việt Nam mà chỉ quy định "Người đã mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 26 của Luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam".
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đánh giá nội dung sửa đổi này là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa yêu cầu tại các văn bản, chỉ đạo của Đảng, tạo điều kiện khuyến khích và thuận lợi hơn cho những người đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam, góp phần hạn chế tình trạng không quốc tịch của người Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời phù hợp với thay đổi của tình hình thực tiễn, bảo đảm tính ổn định, lâu dài của Luật.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng đây là nội dung có liên quan đến việc được trở lại quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài. Vì vậy, để bảo đảm rõ ràng, thực hiện được ngay, đề nghị quy định cụ thể các điều kiện "có thể" được trở lại quốc tịch Việt Nam ngay trong luật.
Bình luận (0)