Chỉ những dịp Tết có điều gì đó đặc biệt với mình, ông mới làm thơ. Vì thế tới nay, tôi chỉ tìm được 3 bài thuộc loại thơ khai bút của ông, đều viết bằng chữ Hán.
* * *
Bài thơ thứ nhất Phan Khôi làm vào năm 1912, đăng lần đầu trên tờ Điện Tín số Xuân Bính Tý 1936. Tôi chỉ biết bài thơ này khi Tuổi Trẻ Cười (TTC) số Xuân Kỷ Sửu 2009 đăng bài "Suýt chút họa vì... thơ Tết" của nhà nghiên cứu - phê bình Lại Nguyên Ân. Bài thơ khi đăng TTC không có đầu đề, để tiện khi viết, tôi gọi là "Nhâm Tý khai bút" vì 1912 là năm Nhâm Tý.
Lai lịch bài thơ này cũng có đôi điều, nay kể ra đây để hầu bạn đọc. Nguyên là Tết Nhâm Tý 1912, Phan Khôi làm một bài tứ tuyệt khai bút bằng chữ Hán, chép vào tờ giấy hoa tiên rồi kẹp vào giữa một cuốn sách, sau cho bạn là ông cử Mai Dị mượn.
Mấy tháng sau, ông cử Mai Dị - vốn là một yếu nhân của phong trào Đông Du - bị xét nhà, bài thơ rơi vào tay mấy ông quan An Nam. Các ông quan này dựa vào mấy chữ "đông phong" trong bài thơ và "Châu Nam - Phan thị" (người họ Phan - tên Châu Nam, là họ tên của Phan Khôi) ở phần lạc khoản, định ghép tác giả vào tội nuôi chí làm Phan Bội Châu ở phía Nam để cổ động phong trào Đông Du.
Viên công sứ Quảng Nam do không tin vào suy luận của mấy ông quan "hay chữ" này bèn bảo họ dừng mọi chuyện nghi hoặc ấy lại, không tra xét nữa. Nhờ thế mà Phan Khôi thoát nạn nhưng ông lại phải chịu cái ơn hờ của viên công sứ, hơn nữa lại phải chuốc lấy những hồ nghi dài dài về sau từ không ít đồng bào của mình.
Rất tiếc là khi bài thơ đăng trên TTC, phần chữ Hán được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhờ GS Nguyễn Huệ Chi "cài" vào sai mất 2 chữ. Đúng ra phải là 凌 霄 (lăng tiêu), nghĩa là "vút tận mây xanh" nhưng TTC lại in thành 淩 瀟 và dịch là "dầm sương", làm mất hẳn cái thế "thượng phong" của 2 chữ "kỳ khí" (khí lạ) vốn có trong nguyên bản.
Về việc này, tôi đã có thư trao đổi ý kiến và được cả nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lẫn GS Nguyễn Huệ Chi tán đồng. Sau đó, tôi đã "cài" lại chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, cả Đường luật và lục bát, nay xin được đưa ra để bạn đọc thưởng lãm.
Nguyên văn:
壬 子 開 筆
春 日 無 花 亦 復 佳
庭 前 上 有 桂 新 栽
凌 霄 奇 氣 無 人 識
曾 共 東 風 一 夜 來
Phiên âm: "Nhâm Tý khai bút. Xuân nhật vô hoa diệc phục giai/ Đình tiền thượng hữu quế tân tài/ Lăng tiêu kỳ khí vô nhân thức/ Tằng cộng đông phong nhất dạ lai".
Dịch nghĩa: "Ngày xuân không có hoa mà vẫn đẹp/ Trước sân có mấy cây quế mới trồng/ Khí lạ ngút trời mà không người nào biết/ Cùng theo gió xuân về trong đêm nay".
Dịch thơ thất ngôn: "Xuân đến không hoa cũng tốt thay/ Trước sân trồng mới quế vài cây/ Ngút trời khí lạ không người biết/ Theo gió xuân về kịp tối nay".
Dịch thơ lục bát: "Không hoa cũng đẹp ngày xuân/ Quế non mấy gốc trước sân mới trồng/ Ai hay hương lạ một vùng/ Nửa đêm vấn vít về cùng gió xuân".
Tết Nhâm Tý là cái Tết đầu tiên Phan Khôi được ra tù. Trước đó, ông bị bắt tại Hà Nội, di lý về Quảng Nam rồi bị chính quyền thực dân kết án 3 năm tù vì nghi dính líu tới cuộc dân biến, còn gọi là vụ "xin xâu", của dân Quảng Nam năm 1908.
Lúc này Phan Khôi chỉ mới 25 tuổi. Tuổi trẻ cùng với việc được trả tự do sau 3 năm ngồi tù, được về sống trong tình yêu thương của gia đình, được trở lại hòa nhập cộng đồng đã giúp ông nhìn cảnh xuân quê mình với vẻ đẹp sống động, trẻ trung, nhiều màu sắc; đặc biệt là có sự giao hòa giữa đất và trời, giữa con người và thiên nhiên.
* * *
Năm Mậu Ngọ 1918, khi Phan Khôi 30 tuổi, ông lại có bài "Khai bút" đăng ở Nam Phong số Tết. Năm 2019, nhà nghiên cứu - phê bình Lại Nguyên Ân đã đưa "Khai bút" vào cuốn "Phan Khôi, tác phẩm đăng báo 1917-1924" (NXB Tri Thức, 2019).
Đáng tiếc là bản in của NXB Tri Thức có 2 chỗ sai so với bản gốc đăng trên Nam Phong. Đó là trường hợp chữ thứ tư câu thứ nhất và 2 chữ đầu câu thứ năm.
Chữ thứ tư câu thứ nhất, bản gốc trên Nam Phong 正 lẽ ra phải phiên âm là "chinh" mới đúng luật thơ Đường nhưng bản của NXB Tri Thức lại phiên âm là "chính". Hai chữ đầu câu thứ năm đúng ra phải là "khởi tất" 豈 必, nghĩa như 2 chữ "khởi tất" trong câu "nhân sinh khởi tất trường tương tụ" 人 生 豈 必 長 相 聚 ở bài thứ nhất trong số 4 bài tứ tuyệt Phan Khôi viết tặng cụ Huỳnh Thúc Kháng nhân đêm trước cụ bị đày ra Côn Đảo. Thế nhưng, NXB Tri Thức lại in thành "khởi tâm" 豈 心, được bà Phạm Ngọc Lan dịch nghĩa "Há trong lòng hớn hở cùng cỏ cây", khiến câu thơ thành ra thất niêm và nghĩa cũng khác đi.
Sau khi trao đổi ý kiến và được ông Lại Nguyên Ân thừa nhận bản in của NXB Tri Thức có sự nhầm lẫn, tôi đã "cài" lại chữ Hán, phiên âm và mượn bản dịch nghĩa của bà Phạm Ngọc Lan (có sửa lại đôi chỗ cho sát nguyên bản) cùng bản dịch sang tiếng Việt của chính Phan Khôi để đưa lên đây.
Nguyên văn:
開 筆
久 戒 新 正 不 作 詩
今 朝 使 酒 試 為 之
朅 來 逆 旅 春 如 客
拓 落 中 天 我 是 誰
豈 必 忻 忻 同 草 木
故 應 默 默 對 妻 兒
浪 吟 薄 醉 成 何 事
壯 歲 驚 臨 忽 不 知
Phiên âm: "Khai bút. Cửu giới tân chinh bất tác thi/ Kim triêu sử tửu thí vi chi/ Khiết lai nghịch lữ xuân như khách/ Thác lạc trung thiên ngã thị thùy/ Khởi tất hân hân đồng thảo mộc/ Cố ưng mặc mặc đối thê nhi/ Lãng ngâm bạc túy thành hà sự/ Tráng tuế kinh lâm hốt bất tri".
Dịch nghĩa: "Lâu rồi, mải lo việc đổi mới, không làm thơ/ Sáng nay nhân uống rượu lại thử khai bút/ Đi lại trong cõi trần hoàn, mùa xuân như khách/ Khoáng đạt giữa trời, ta là ai?/ Lọ phải hớn hở cùng cỏ cây/ Cho nên lặng lẽ trước vợ con/ Ngà ngà say ngâm tràn, thành được việc gì/ Giật mình, tuổi tráng niên đến mà sao nhãng không biết".
Dịch thơ: "Cột túi thơ xuân tởn đến già/ Hôm nay có chén mở bùng ra/ Thật lanh như biến, Tết rồi Tết/ Ra quái gì đây, ta với ta/ Lọ phải được như hoa cỏ mới.../ Đã đành chơi với vợ con mà!/ Thơ thần rượu thánh ăn ai tá?/ Chất đống trên đầu chục chẵn ba".
Năm 1918, Phan Khôi tròn 30 tuổi, chủ yếu viết cho Nam Phong với không ít bài báo đã làm nên tên tuổi của ông. Lập thân vào tuổi 30, đúng như câu "tam thập nhi lập" thì vui như Phan Khôi là phải, chẳng ai có thể trách được. Vậy mà năm 1958, lại có nhà phê bình dựa vào 2 câu "Lọ phải được như hoa cỏ mới... Đã đành chơi với vợ con mà!" để bảo rằng ông "hèn nhát" thì thật là lạ!
* * *
32 năm sau, tức năm Canh Dần 1950, lúc Phan Khôi đang ở vùng Mỹ Yên - Thái Nguyên, nơi có trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam thời kỳ 1949 - 1950, ông mới lại có bài thơ khai bút khác. Bài thơ này được ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt.
Số là, dịp Tết năm 1950, Phan Khôi nhận được thư nhà do người con gái thứ bảy của ông viết thay mẹ từ làng Trung Phước thuộc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam - nơi gia đình ông đang tản cư. Thư nói cả nhà bình yên nhưng vì phải chạy tản cư, không làm gì ra tiền, thiếu ăn nên phải bán thêm mấy sào ruộng...
Trong tâm trạng buồn phiền vì sống xa gia đình, giao thừa năm ấy Phan Khôi đã làm một bài thơ chữ Hán. Khác với thường lệ, ông không gửi bài thơ này về gia đình nhưng không hiểu sao nhà thơ Thế Lữ lại biết được và đã phiên âm, dịch nghĩa. Về sau, bài thơ được nhà phê bình Thiếu Sơn đưa vào cuốn "Những văn nhân chính khách một thời", xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975; không có đầu đề, không có phần chữ Hán mà chỉ có phần phiên âm Hán Việt và dịch nghĩa của nhà thơ Thế Lữ.
Nay tôi mạn phép đặt tên cho bài thơ là "Canh Dần khai bút", "cài" thêm chữ Hán, mượn phần dịch nghĩa của nhà thơ Thế Lữ và dịch ra thơ Đường luật, thơ lục bát để cống hiến bạn đọc.
Nguyên văn:
庚 寅 開 筆
獨 夜 過 除 夕
更 無 燈 可 身
重 衾 蓋 衰 腐
闪 夢 著 酸 辛
有 爱 甘 生 別
無 贏 任 食 貧
聞 鷄 恨 起 坐
抗 戰 四 逢 春
Phiên âm: "Canh Dần khai bút. Độc dạ quá trừ tịch/ Cánh vô đăng khả thân/ Trùng khâm cái suy hủ/ Thiểm mộng trước toan tân/ Hữu ái cam sinh biệt/ Vô doanh nhiệm thực bần/ Văn kê hận khởi tọa/ Kháng chiến tứ phùng xuân".
Dịch nghĩa: "Một mình đêm giao thừa/ Đến ngọn đèn làm bạn cũng không có/ Đắp lên thân suy tàn một tấm mền kép/ Chợp mắt mơ là nhấm miệng chua cay/ Có vợ con mà cam sống chia cách/ Không sinh kế phải ăn nhờ/ Nghe gà gáy mừng vùng dậy/ Kháng chiến bốn xuân rồi".
Dịch thơ ngũ ngôn: "Trừ tịch qua đêm nay/ Đèn chong chẳng có thay/ Thân tàn đắp chăn kép/ Mộng mị chồng chua cay/ Tình nặng cam chia cách/ Túi không đành ăn chay/ Bật ngồi nghe gà gáy/ Kháng chiến hơn ngàn ngày".
Dịch thơ lục bát: "Giao thừa một bóng một hình/ Ngọn đèn làm bạn bên mình cũng không/ Chăn sui đắp tấm thân còm/ Nằm suông gặp mộng miệng còn cay tê/ Hữu tình cam sống xa quê/ Túi không nếm vị hoắc lê bấy chày/ Giận nghe gà gáy ngồi ngay/ Tỉnh ra kháng chiến xuân rày bốn xuân".
Có thể thấy bài thơ là một phần tâm trạng của Phan Khôi trong những giây phút thiêng liêng từ năm cũ sang năm mới sau 4 năm từ biệt gia đình, ra Hà Nội dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc rồi lên Việt Bắc theo kháng chiến.
Tưởng như thế thì dù người đọc có khó tính đến mấy cũng có thể thông cảm được. Thế mà, không hiểu vì sao cả với bài thơ này, Phan Khôi cũng bị mang tiếng là "kẻ đối địch, chẳng qua yếu thế phải theo ta" từ một nhà phê bình hồi đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm!
Tôi viết về 3 bài thơ khai bút của Phan Khôi không vì cho rằng đó là những bài hay trong kho tàng thơ khai bút của dân tộc. Chẳng qua là nhân dịp Tết Quý Mão, tôi muốn giới thiệu một số bài thơ khai bút của Phan Khôi mà rất có thể nhiều người chưa biết, tiện thể đính chính những chỗ sai của các bản in trước đây.
Cái chính là tôi muốn qua những bài thơ khai bút kia gửi tới bạn đọc tâm tư, tình cảm, suy nghĩ riêng tư của nhà báo - nhà văn Phan Khôi, vui có buồn có, qua từng cái Tết khác nhau, từng thời kỳ khác nhau của cuộc đời viết văn, làm báo của ông, cung cấp một vài tư liệu về ông cho các nhà nghiên cứu.
Bình luận (0)