Trong số các nhạc sĩ tự học âm nhạc nhưng thành danh từ thời kỳ đầu tân nhạc, tôi kính phục nhất Văn Cao và Tô Vũ. Hai người bạn đồng niên (cùng sinh năm Quý Hợi 1923) đã cùng huynh trưởng Hoàng Quý (Tô Vũ là em ruột Hoàng Quý, tên khai sinh và bút danh thời tiền chiến là Hoàng Phú) và các đàn anh Canh Thân, Phạm Ngữ tạo ra nhóm "Đồng Vọng" đi đầu trong phong trào "Thanh niên - lịch sử" thời cao trào cách mạng của thập niên 40 thế kỷ trước.
Tâm nguyện dâng hiến cho âm nhạc
Ngày ấy, được sự dẫn dắt của thầy Lê Thương (Ngô Đình Hộ), nhóm "híp-pi tiền chiến" ra đời ở Hải Phòng với tâm nguyện dâng hiến cho nghệ thuật âm nhạc. Thế nhưng, kiến thức của họ còn rất ít ỏi. Ngoài chút ít lý thuyết âm nhạc Tây phương, dường như họ còn hiểu rất sơ sài về âm nhạc dân tộc. Song, thời thế đã thức tỉnh họ, giúp họ hành trình về nguồn.
Giữa những ngày nhen nhóm của cao trào cách mạng, có lần Hoàng Quý cùng em Hoàng Phú đi tàu thủy từ Hải Phòng về Quảng Yên thăm cụ thân sinh. Câu hát xẩm chợ của người hát rong đã đập vào túi não 2 nhạc sĩ trẻ - đấy là lời thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải. Trở về, Hoàng Quý đã viết "Trên sông Bạch Đằng", còn Hoàng Phú là "Ngày xưa" viết về Hai Bà Trưng.
Cách mạng Tháng Tám đã thổi bùng lên sức mạnh thăng hoa của toàn dân tộc. Hoàng Phú khi đó cùng ban nhạc gia đình, căn bản là tìm cách thể hiện tốt nhất những tác phẩm của người anh cả Hoàng Quý yêu mến. Chỉ đến khi người anh cả số phận đoản mệnh Hoàng Quý sắp rời cõi đời, để lại lời trăng trối với em về việc phải cố gắng suốt đời thay anh phụng sự hết tâm huyết cho nền âm nhạc Việt Nam đã lại thêm một cú hích mạnh, khiến Hoàng Phú không còn bước lùi. Viết ca khúc "Tạ từ", chính là Hoàng Phú muốn trút hết tâm sự, muốn vĩnh chào quá khứ ngây thơ để bắt đầu một hành trình mới: "Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh/Gió dâng khúc đàn thanh bình/Ta đi tìm thơ/Muôn phương gót in núi rừng thâm u…" . Hành trình kháng chiến và cũng là hành trình về nguồn tìm lại chính mình trong âm hưởng dân tộc.
Từ Hoàng Phú đến Tô Vũ
Khởi đầu hành trình với tâm hồn mê mải tìm kiếm, Hoàng Phú còn không để ý chăm sóc tới dung mạo của mình, mới 25 tuổi mà râu đã để dài như người già, khiến nhà thơ Xuân Diệu phải tặng cho một bút danh mới là Tô Vũ.
Tô Vũ là một nhân vật lịch sử Trung Hoa thuộc thời Tây Hán. Ở cương vị Trung Lang tướng, Tô Vũ được vua Hán Vũ Đế trao nhiệm vụ đi sứ Hung Nô. Do phó tướng của ông là Trương Thắng có dính dáng tới cuộc tranh đua của nội bộ Hung Nô, Tô Vũ bị liên lụy. Hung Nô nhiều lần uy hiếp dụ đầu hàng, ông không chịu nên bị đày đi chăn dê. Tích "Tô Vũ chăn dê" từ đó mà thành.
Nhạc sĩ Tô Vũ (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy Ảnh: Thanh Hiệp
Hoàng Phú thấy bút danh này hình như có vẻ hợp với mình nên nhận ngay. Từ đó, bắt đầu một nhạc sĩ Tô Vũ. Trong một lần cùng Nguyễn Đình Phúc đi điền đã ở vùng giáp ranh Bắc Ninh, Tô Vũ đã gặp "tiếng sét ái tình" với âm nhạc dân tộc mà đến lúc này mới được nghe thực sự.
Từ đó, Tô Vũ đã nhận ra con đường đi của mình mà chính "Đề cương Văn hóa 1943" của Đảng đã chỉ ra: "Dân tộc - khoa học - đại chúng". Đấy là cuộc song hành của sự tìm tòi trong 2 ngôn ngữ sáng tạo âm nhạc. Một lối là tìm ra ngôn ngữ nhạc kinh viện nhưng mới mẻ trong những ca khúc trữ tình (romance). Đấy là việc cho ra đời "Tiếng chuông thiên thu" và đặc biệt là "Em đến thăm anh anh một chiều mưa" nổi tiếng. Chỉ từ một cuộc đến thăm của cô em gái Hoàng Hải mùa đông năm 1948, vậy mà với sự tưởng tượng của mình về tình yêu, Tô Vũ đã trút vào giai điệu tiếng thầm thì, da diết của lãng mạn đôi lứa. Dù ca từ vẫn viết rất trung dung: "Em đến thăm anh người em gái/Tà áo hương nồng/Mắt huyền trìu mến/Sưởi ấm lòng anh" nhưng người nghe vẫn nhận thấy đấy là câu chuyện chàng và nàng nhiều hơn là chuyện anh em ruột. Nếu ai chưa từng biết chuyện này chắc chắn đấy là câu chuyện giữa chàng và nàng. Với sức tưởng tượng của tuổi thanh xuân cùng với tài năng mẫn tiệp, Tô Vũ đã góp vào dòng ca khúc lãng mạn một nhạc phẩm bất hủ.
Chất đại chúng trong học thuật
Bất ngờ là ở một lối khác, lối bám sát truyền thống, ngôn ngữ dung dị, mang tính đại chúng nhưng vẫn chứa đầy học thuật, ngỡ như ngược hẳn với lối trên nhưng qua tâm hồn Tô Vũ, chúng lại "Song kiếm hợp bích" đến mức lạ lùng.
Khó mà tin rằng tác giả "Cấy chiêm" (thơ Quách Vinh) tràn ngập âm hưởng chèo lại cũng là tác giả "Em đến thăm anh một chiều mưa" (đã được hát vang ở các vùng tạm bị chiếm). Nhưng đó mới thực sự là tài năng, là cá tính sáng tạo của Tô Vũ. Từ "Cấy chiêm", Tô Vũ còn đi tới "Nhớ ơn Hồ Chí Minh" với vẻ đẹp âm thanh thuần khiết đến trác tuyệt: "Toàn dân ghi ân đức Người dài lâu như núi sông, như mưa rơi trên đồng khô, như ánh nắng ngày mùa …". Tất cả những hun đúc ấy, tích tụ ấy đã đưa Tô Vũ đến tác phẩm hòa tấu dàn nhạc dân tộc tiêu biểu "Nông thôn đổi mới" ngay sau hòa bình (viết cùng Tạ Phước).
Sau ngày Hải Phòng giải phóng vài năm, Tô Vũ lại lãng mạn bằng "Gợi ý mùa trăng": "Trăng sáng đêm nay còn đẹp mấy mươi/Tà áo nhung bay mùa thu đã về rồi …" và gần gũi hơn, hào sảng hơn là "Khúc ca yêu đời": "Ta hát say sưa khúc ca yêu đời/Một mùa xuân tưng bừng đã về bạn ơi!…", rồi lại thật dung dị qua "Chị em bón bèo": "Ánh xuân hồng trên má trên đôi môi/Mấy cô nàng, mấy cô nàng đi bón bèo…". Lúc ấy tôi đâu biết Tô Vũ đã "phải lòng" "nàng âm nhạc dân tộc" đến say đắm để có những tác phẩm nhạc sân khấu như "Hoàng hôn trên xóm nhỏ" (hòa tấu dàn nhạc dân tộc - 1966), "Đề Thám" (nhạc tuồng - 1969), "Trưng Vương" (nhạc cải lương - 1970), "Dũng sĩ Rạch Gầm" (nhạc chèo - 1971), "Nghêu, sò, ốc, hến" (nhạc tuồng - 1972), "Sơn Tinh, Thủy Tinh" (nhạc múa rối - 1973)…
Tô Vũ lại ập vào tôi một bất ngờ lớn sau ngày thống nhất. Khó có thể diễn tả niềm hân hoan khi nghe "Như hoa hướng dương" (thơ Hải Như). Người làm thơ mà viết về Đảng như thấm vào đời thường thế này đã khó: "Một lớp học đầu thôn/Một bát cơm gạo trắng/ Một cái bắt tay giữa nam nữ trên đường/Một câu hò ơ/Một ngôi chùa cổ quê hương…", người làm nhạc để thấy hết cái thấm ấy chứa chan âm điệu dân tộc thì còn khó thế nào! Vậy mà Tô Vũ đã bản lĩnh đến thành thục, tạo ra thành công trong sáng tạo đó.
Ông Tô Vũ - Trung Quốc ngày xưa chỉ chăn dê có 19 năm đầy ải. Ông Tô Vũ - Việt Nam "chăn" nhạc đến ngoài 90 xuân, tự nguyện dâng hiến. Ông thật xứng đáng với Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông đã đi về cõi thiên thai năm 2014.
Bình luận (0)