Xóm tôi gồm những ngôi nhà nằm san sát nhau cùng một hướng ra phía đường cái lớn. Vết lằn ranh nhà tôi và nhà ông Mạo là một cây bàng sừng sững như đã mọc ở đây dễ đến trăm năm. Từ khi tôi còn nhỏ, cây bàng đã vút cao; lá già đi khi mùa đông về, rụng xuống; chúng đâm những chồi non vào mùa xuân, vài nõn búp màu xanh, tròn xoe ẩn hiện trên cành mắt lá.
Tôi lớn lên, chẳng đếm đủ bao lần đập trái bàng ăn cái nhân màu trắng bùi bùi mà cái áo hoa tím của tôi dính đầy nhựa. Mẹ giặt mãi chẳng sạch, mẹ mắng vốn: "Con cái lớn đầu mà nghịch dại". Tôi nào có để ý điều đó, trẻ con cứ cuốn theo niềm vui là quên đi hết. Niềm vui của trẻ con thì nhiều lắm, chỉ loáng thấy tiếng gọi "Na ơi!" của cái Tú nhà cạnh bên, tôi liền khúc khích chạy theo.

Minh họa AI: FA
Thỉnh thoảng, ông Mạo cầm con dao rựa gõ vào thân cây. Tôi lân la hỏi:
- Sao ông lại chặt nó đi?
Ông Mạo bảo:
- Không, ông chỉ tỉa những cành lòa xòa, cho khỏi vướng.
Ông Mạo sống một mình trong ngôi nhà nhỏ bằng gian buồng nhà tôi. Nồi, niêu, xoong, chảo, ông đặt hết lên trên một chiếc giường tre cũ kỹ; còn cái phản gỗ, ông làm chỗ nằm ngủ. Một bàn chân trái bị cụt, ông luôn phải dùng chiếc nạng gỗ, mỗi bước ông đi, một bên chân in hình tròn trên nền đất. Ông có cái đài pin, lúc nào cũng bật, kể cả lúc ông đi vắng, vào mãi trong xóm Đặng chơi, tiếng đài vẫn ngân nga những bài dân ca và nhạc cổ truyền. Đã đôi lần tôi hỏi mẹ:
- Mẹ, sao ông Mạo chỉ sống có một mình?
Mẹ tôi bảo:
- Ngày trước, ông cũng có vợ, nhưng bà ở với ông mãi không sinh được con, bà đi lấy chồng khác rồi.
- Sao ông không sinh được con hả mẹ?
- Hình như do chiến tranh, chất độc màu da cam trong rừng nhiễm vào ông.
Tôi không hiểu gì về chiến tranh. Nhưng, qua lời mẹ kể, tôi tưởng tượng chiến tranh giống như con quái thú nghìn tay nghìn chân, có cái miệng rộng nuốt trọn loài người. Tôi cũng từng đóng vai mình là một quái thú khi ngắm đàn kiến đi kiếm mồi. Tôi phồng mồm, thổi thật mạnh, tạo ra dòng lốc xoáy khiến lũ kiến bay vòng vòng lên không trung rồi rơi xuống. Cái Tú còn múc chén nước, đổ lênh láng vào tổ, tạo ra trận lũ trên con đường kiến đang nối đuôi nhau đi qua. Đàn kiến bị trôi dạt ra xa, miếng cơm khô chúng khó nhọc tha về tổ lăn xuống đất. Lũ kiến không bỏ cuộc, chúng lấy cái chân bé xíu, khều khều miếng mồi vừa bị cuốn đi. Ông Mạo bảo:
- Mấy đứa làm như thế là xấu.
Tôi cãi lại:
- Kiến vừa đốt vào chân cháu, bọn cháu chỉ là trả thù thôi mà.
Ông Mạo cười:
- Trả thù kẻ yếu thế hơn mình có gì oai?
Tôi và cái Tú tỏ vẻ ngơ ngác, cố tình không muốn hiểu lời ông nói, ngước nhìn lên cây bàng xòe tán lá, để lộ khoảng trời trong xanh, cao vời vợi.
Tôi chẳng thấy ông Mạo đi làm bao giờ cả. Sáng nào mẹ tôi cũng phải dậy sớm để nhóm lửa, thổi cơm. Mẹ treo cái cặp sách ở xe rồi còn lên lớp dạy học. Tôi ngủ dậy, rồi chạy ra bóc tờ lịch treo tường, đếm nhẩm từng ngày cuối tuần bố tôi ở đơn vị được về nghỉ phép. Còn ông Mạo, sáng nào ông cũng mang theo cái đài pin, bắc cái ghế gỗ ngồi dưới gốc cây bàng, dáng vẻ thảnh thơi, như thời gian đang vây quanh lấy ông chẳng chịu trôi đi vậy. Tôi hỏi ông:
- Cháu cũng thích được ngồi như ông thế này, không phải đi học. Học toán khó lắm, cháu ghét toán.
Ông bảo:
- Ghét của nào trời trao của nấy đấy cháu ạ.
Tôi lại hỏi:
- Thế ông ghét cái gì?
Ông bảo:
- Ghét sự nhàn rỗi.
Tôi thầm nghĩ trong lòng: "Chẳng phải mẹ tôi đi dạy chỉ mong đến ngày cuối tuần để được nhàn rỗi sao?". Nhưng cuối tuần của mẹ còn bao nhiêu việc đang chờ, trang giáo án mẹ soạn tới nửa đêm.
Bữa cơm của ông Mạo rất giản đơn, một bát cà muối, bát canh rau tập tàng ông hái sau vườn là đủ. Tôi và cái Tú hay lân la ngồi ở cửa nhà ông. Tôi tò mò hỏi:
- Thế ông không đi làm như bố mẹ cháu, lấy tiền đâu mua gạo?
Ông Mạo cười:
- Ông là thương binh, có Nhà nước nuôi rồi.
Cái Tú hỏi:
- Làm thế nào để được Nhà nước nuôi hả ông?
Ông lại bảo:
- Phải đánh đổi nhiều lắm, đôi khi là cả máu xương của mình. Như đồng đội của ông…
Ông Mạo không kể tiếp nữa, đặt bát cơm xuống mâm, mắt ông rưng rưng. Hình như ông đang đối diện với nỗi buồn trong lòng mà chẳng thể nói ra, bởi chúng tôi còn nhỏ quá, chẳng đủ để thấu hiểu nỗi buồn của người lớn. Đôi bàn tay gân guốc của ông đấm vào lồng ngực, đôi gò má nhô cao như thách thức sự kham khổ, chai sạn và cô đơn.
Cái Tú bảo nhỏ với tôi:
- Làm người lớn như ông Mạo buồn nhỉ. Ước gì bọn mình mãi không lớn, cứ mãi trẻ con như bây giờ.
Tôi mỉm cười, lòng thầm nghĩ, không biết làm thế nào để lời ước của Tú và tôi thành sự thật.
Thời gian trôi đi, mang theo cả những ước mơ vẩn vơ và nhỏ bé của chúng tôi đi xa mãi. Một mùa đông nữa lại về, cây bàng lá chuyển từ xanh sang đỏ, những sắc đỏ gan lì bám mãi trên cành không chịu rụng xuống, kết thúc một đời lá. Nhà Tú vừa chuyển đi, gia đình nó phá sản, không biết bố nó buôn bán gì mãi tận biên giới rồi nợ nần nên phải bỏ xứ đi thật xa.
Cái đêm đông lạnh giá đó, Tú cùng bố mẹ đi như mất cắp, để lại trong tôi nỗi buồn chán ngắt. Tú kịp tặng lại cho tôi một chiếc nơ buộc tóc màu đỏ, cái nơ mẹ nó đan bằng dây len. Đó cũng là lần đầu tiên tôi chạm vào nỗi buồn, cái mà tôi chỉ thấy ở trong dáng ngồi của ông Mạo, bên gốc cây bàng; thế mà, nỗi buồn ấy, giờ bay sang cả phía tôi.
Ông Mạo thấy tôi tha thẩn dưới gốc bàng, an ủi:
- Rồi cháu sẽ quen thôi.
Tôi hỏi lại:
- Quen gì hả ông?
Ông bảo:
- Quen với những nỗi buồn. Đời người, ai rồi cũng sẽ phải đi qua rất nhiều nỗi buồn.
Mắt tôi chực khóc, hỏi:
- Thế ông buồn vậy có bao giờ ông vui?
Ông bảo:
- Không, ông chẳng buồn, cũng chẳng vui, như trạng thái của Phật.
Ông Mạo ít nói, nhưng tình cảm. Những câu nói của ông luôn làm tôi nhớ, khắc sâu vào tâm trí. Tôi biết mình còn nhỏ nên ghim nó vào trong đầu, dặn tôi sau này lớn lên sẽ hiểu.
Thời gian oằn mình trôi đi theo mùa, cây bàng thêm già cỗi, thân hình xù xì găm những vệt rêu ký sinh màu xanh. Tôi miết ngón tay theo đường trơn trượt của rêu, lòng tôi vấp ngã về những kỷ niệm tuổi thơ với Tú. Dạo chúng tôi mới xa nhau, Tú gửi thư về đều đặn, thỉnh thoảng chúng tôi còn gửi cho nhau những bức hình để khoe với nhau rằng thời gian đã làm chúng tôi lớn lên. Thế rồi, những lá thư chẳng hiểu sao cứ thưa dần, thưa dần…
Dạo gần đây ông Mạo yếu hơn. Ông lê từng bước bên cây nạng gỗ chậm chạp qua gốc cây bàng rồi sang nhà tôi; mẹ tôi đưa cho ông chiếc ghế để ông ngồi, dáng ngồi khó nhọc, lặng im như tượng.
Cho tới hôm nay, ông Mạo bị ốm; ông đắp khăn mặt lên trán, kéo chiếc chăn trùm kín đầu, miệng rên hừ hừ vì sốt rét tái phát. Phía ngoài đường cái lớn, chỗ gốc bàng, chiếc xe ôm đỗ lại, người thanh niên trạc đôi mươi bước vào. Anh ta đứng ở cửa một lát, rồi ngập ngừng:
- Bố! Con là Đạt, con trai của bố đây.
Ông Mạo chưa hiểu gì, mắt ông cố mở to, ngoảnh lại:
- Sao anh lại là con tôi?
Người thanh niên đưa cho ông mảnh giấy, là bức thư cuối cùng của mẹ anh, trước khi qua đời, để lại.
Thì ra, năm ấy, vợ của ông Mạo bỏ đi lấy người chồng khác, cũng là lúc bà mang thai anh Đạt - giọt máu của ông Mạo, cả bà và ông không biết. Chỉ đến khi anh Đạt lớn lên rồi, khuôn mặt ấy, đôi gò má nhô cao và dáng người dong dỏng hệt như ông Mạo, chỉ nhìn thôi cũng biết là cha con chẳng thể lẫn vào đâu. Bà âm thầm đưa anh Đạt đi xét nghiệm, anh đúng là không phải con chung của bà và người chồng mới. Sự thật ấy khiến bà áy náy, bao năm giày vò rồi sinh bệnh. Trước khi lìa đời, bà muốn anh Đạt biết đến nguồn cội của mình, anh về tìm cha.
Anh Đạt đọc cho ông Mạo nghe bức thư của mẹ, ông Mạo hiểu ra, đôi mắt ầng ậng nước:
- Giời đất ơi! Tôi có một người con trai thật à?
Anh Đạt nói:
- Vâng! Bố ơi, mẹ con muốn gửi tới bố ngàn lời xin lỗi.
Ông Mạo đưa bàn tay gầy guộc của mình nắm lấy tay anh. Có điều gì đó thật ngại ngùng, thật lạ lẫm, nhưng lại là tình máu mủ rưng rưng.
Bệnh sốt rét tái phát lấy đi mạng sống yếu ớt của ông Mạo. Cái chết của ông khiến cả xóm tôi buồn. Từ nay, chẳng tìm đâu cho thấy bóng dáng ông ngồi bên gốc cây bàng. Anh Đạt mặc áo tang tiễn đưa người cha chặng đường cuối cùng, anh ấy khóc nhiều, như khóc cho cả phần bao năm tủi hổ hóa ra cha mình lại ở đây.
Mẹ tôi thắt lên cây bàng chiếc khăn tang màu trắng. Tôi hỏi:
- Cây có biết buồn không hả mẹ?
Mẹ bảo:
- Hình như cây đang khóc.
Tôi thấy những giọt nước chảy từ thân cây trôi xuống như những giọt nước mắt đang lăn trên gò má của mẹ và tôi. Mẹ con tôi khóc cho một phận người, cây bàng khóc cho một phận đời…
THANH NGA

Tên thật: Nguyễn Thị Thanh Nga. Nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng.
Hiện sinh sống và làm việc tại Bắc Ninh.
Có nhiều tác phẩm truyện ngắn được đăng trên các báo trong nước.
Bình luận (0)