Tại đặc khu Côn Đảo, TP HCM, với 6.462 ha rừng và đất lâm nghiệp, trong đó rừng tự nhiên chiếm tới 92,89%, lượng carbon tích trữ ước tính hơn 428.000 tấn. Thảm cỏ biển - phân bố chủ yếu ở vịnh Côn Sơn - cũng đóng góp khoảng 15 tấn carbon.
Tiềm năng dồi dào
Theo đơn vị tư vấn, tổng tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính quy đổi từ trữ lượng carbon rừng và biển tại Côn Đảo đạt khoảng 427.000 tấn, trong đó rừng chiếm trên 99,9%.
Ông Trần Thanh Huyền, Phó Chủ tịch UBND đặc khu Côn Đảo, cho biết địa phương mong muốn có đánh giá chi tiết, định lượng để có cái nhìn tổng thể về tiềm năng giảm phát thải từ rừng và tín chỉ carbon. Việc này không chỉ góp phần bảo tồn hệ sinh thái mà còn mở ra triển vọng kinh tế xanh, phục vụ định hướng phát triển bền vững trong thời gian tới.
Tại tỉnh Quảng Trị, xã Cao Quảng nằm trong thung lũng phía Đông dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ông Nguyễn Quang Huy, Chủ tịch HĐQT HTX Lâm nghiệp Cao Quảng, thông tin do Lâm trường Cao Quảng hoạt động kém hiệu quả nên Chính phủ cho phép giải thể vào năm 2005.
Theo ông Huy, sau khi giao đất rừng về cho địa phương quản lý, tiềm năng "rừng vàng biển bạc" bước đầu được khai thác hiệu quả. Năm 2025, xã Cao Quảng nhận được gần 4 tỉ đồng tiền chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng từ Quỹ Đối tác Carbon rừng của Ngân hàng Thế giới (FCPF).

Đặc khu Côn Đảo, TP HCM có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính quy đổi từ trữ lượng carbon rừng và biển khá dồi dào. Ảnh: NGỌC GIANG
Về phía doanh nghiệp (DN), ông Nguyễn Hồng Phong, Tổng Giám đốc Công ty CP Công Nông nghiệp Tiến Nông (tỉnh Thanh Hóa), cho biết mục tiêu của công ty là hướng tới trung hòa carbon, đồng thời phát triển giải pháp xử lý chất thải, phụ phẩm từ một số ngành để tạo ra tín chỉ carbon. "Chúng tôi có quan điểm rõ ràng: Bụi là tiền, rác là tài nguyên. DN phấn đấu tạo tín chỉ carbon để bán thu lợi và giúp bù đắp cho các ngành khác" - ông nhấn mạnh.
Tại một cuộc họp mới đây, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, cần chính sách đồng bộ từ việc cấp hạn ngạch, giám sát triển khai đến các công cụ kinh tế như thuế nhằm tạo cầu. "Then chốt là phải có thị trường, có cung - cầu thực chất, DN thấy lợi ích thì mới đổi mới công nghệ, quản trị để giảm phát thải" - Phó Thủ tướng nhìn nhận.
Doanh nghiệp cần "khôn ngoan"
Trong bối cảnh thị trường carbon ở Việt Nam dần hình thành, hành lang pháp lý phải sớm hoàn thiện để làm cơ sở phát triển.
Đầu năm 2025, Thủ tướng đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường carbon với 2 giai đoạn: Giai đoạn 2025-2028 bắt đầu vận hành thử nghiệm, đến năm 2029 sẽ vận hành chính thức. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 119/2025 sửa đổi một số điều của Nghị định 06/2022 về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN-MT), dự kiến toàn bộ hành lang pháp lý và hạ tầng kỹ thuật cần thiết sẽ được hoàn thiện để thị trường carbon có thể vận hành thử nghiệm vào cuối năm 2025.
TS Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu - Bộ NN-MT, thông tin bộ đang xây dựng nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng bởi khi thực hiện giao dịch quốc tế, nếu không có cơ chế quản lý chặt chẽ, lượng phát thải giảm được của Việt Nam không được tính vào mục tiêu quốc gia mà chuyển sang phần đóng góp của nước mua.
"Tín chỉ carbon phải được tạo theo tiêu chuẩn và phương pháp minh bạch, giao dịch phải có sự quản lý, điều tiết của nhà nước để tránh ảnh hưởng cam kết của quốc gia và DN trong nước" - ông Quang lưu ý.
PGS-TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược - Chính sách NN-MT, khuyến nghị DN tham gia thị trường carbon một cách khôn ngoan để tận dụng nguồn tài chính khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, giảm phát thải, đồng thời huy động thêm nguồn lực cho quốc gia, DN và người dân.
Theo ông Thọ, xu hướng toàn cầu hiện nay là kết nối thị trường tự nguyện với thị trường tuân thủ, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Trong đó, việc kết nối giữa thị trường tuân thủ và tự nguyện chủ yếu thực hiện qua cơ chế bù trừ carbon, còn việc kết nối giữa thị trường trong nước và quốc tế được thực hiện thông qua điều 6 của Thỏa thuận Paris.
Ông Thọ phân tích: Trong nông nghiệp, chi phí giảm phát thải 1 tấn carbon có thể lên tới 300 USD trong khi tín chỉ nông - lâm nghiệp trên thị trường tự nguyện chỉ có giá 1 - 1,6 USD/tấn. Nếu bán tín chỉ giá rẻ mà không đạt cam kết giảm phát thải, Việt Nam có thể phải chi tới 300 USD/tấn carbon để bù đắp phần cam kết của quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính.
"Tuy nhiên, nếu biết cách khai thác cơ hội từ sự kết nối giữa thị trường bù trừ - tuân thủ và trong nước - quốc tế thì cơ hội tài chính mang lại cho DN có thể tăng gấp 20 - 30 lần so với giá bán tín chỉ thông thường" - ông Thọ nhận định.
4 loại hình tiềm năng
Ông Lê Quang Linh, chuyên gia dự án Giảm phát thải, tài chính xanh Công ty CP Khoa học và Môi trường Giant Barb, cho biết 4 loại hình dự án hiện có tiềm năng phát triển tín chỉ carbon rất lớn tại Việt Nam. Đó là dự án sản xuất biochar từ phế - phụ phẩm nông nghiệp; dự án thu hồi biogas và phát điện từ hoạt động chăn nuôi heo; dự án thu hồi khí từ bãi rác, bãi chôn lấp chất thải để phát điện và dự án đốt rác phát điện.

Bình luận (0)