Dưới đây là những trường hợp người lao động phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng lao động.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Theo Điều 35 Bộ Luật Lao động 2019, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải bảo đảm có lý do luật định hoặc đã báo trước đúng thời hạn cho người sử dụng lao động biết.
Trường hợp nghỉ ngang, người lao động sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Khi đó, người lao động sẽ phải bồi thường cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 40 Bộ Luật Lao động năm 2019 như sau:
Bồi thường nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Bồi thường thêm 1 khoản tiền lương theo hợp đồng lao động tương ứng với những ngày không báo trước. Hoàn trả chi phí đào tạo nếu trong quá trình làm việc được cử đi học nghề, đào tạo nghề từ kinh phí của người sử dụng lao động.
Ngoài việc phải bồi thường, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật cũng gặp phải thiệt thòi khi không được nhận trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp.
Vi phạm thỏa thuận về bí mật kinh doanh, công nghệ
Theo khoản 2 Điều 21 Bộ Luật Lao động năm 2019, khi giao kết hợp đồng lao động, nếu công việc của người lao động có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, công nghệ của công ty thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về các nội dung liên quan đến việc bảo vệ bí mật đó.
Nếu người lao động vi phạm về bí mật kinh doanh, công nghệ thì người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động bồi thường theo thỏa thuận
Căn cứ khoản 2 Điều 4 Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH, thỏa thuận về bảo vệ bí mật kinh doanh, công nghệ có thể gồm những nội dung chủ yếu sau: Danh mục bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; Phạm vi sử dụng bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; Thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; Phương thức bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động trong thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ; Xử lý vi phạm thỏa thuận bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ.
Nếu người lao động vi phạm thỏa thuận, công ty có quyền xử lý vi phạm và yêu cầu người lao động bồi thường theo thỏa thuận. Mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp này cũng phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động.
Làm hư hỏng tài sản
Theo khoản 1 Điều 129 Bộ Luật Lao động 2019, người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của công ty sẽ phải bồi thường.
Trường hợp gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng thì chỉ cần bồi thường tối đa 3 tháng tiền lương. Số tiền này sẽ được khấu trừ hằng tháng từ tiền lương của người lao động sau khi đã nộp các khoản bảo hiểm bắt buộc và thuế thu nhập cá nhân nhưng tối đa không quá 30% lương/tháng.
Làm hư hỏng tài sản công ty do cố ý hoặc sơ suất nhưng với hậu quả nghiêm trọng hoặc có giá trị thiệt hại thực tế trên 10 tháng lương tối thiểu vùng thì người lao động bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của công ty.
Làm mất tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 129 Bộ Luật Lao động năm 2019, nếu làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản hoặc tài sản khác do công ty giao cho hoặc làm tiêu hao vật tư quá định mức cho phép, người lao động có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tùy từng trường hợp mà mức bồi thường sẽ khác nhau, thậm chí có trường hợp người lao động còn không cần bồi thường cho công ty.
Có hợp hợp đồng trách nhiệm: Bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận. Do thiên tai, hỏa hoạn, thảm họa, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, sự kiện khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép: Không phải bồi thường.
Trường hợp còn lại: Bồi thường một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động.
Bình luận (0)