Đến cửa biển Mỹ Á (phường Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi), chúng tôi nghe được những câu chuyện đầy tự hào về những con người cả đời gắn bó với sóng nước. Giữa không gian mặn mòi gió biển ấy, hình ảnh những ngư dân can trường, vượt qua những mất mát do bão tố, dám nghĩ dám làm, bền bỉ bám biển để làm giàu từ biển trở thành điểm sáng cho nhiều người làm theo.
Gượng dậy sau đợt bão tố
Theo chân ông Võ Xuân Cẩm, Phó Chủ tịch Nghiệp đoàn nghề cá phường Phổ Quang (cũ), men theo con đường bê tông dẫn vào làng chài Hải Tân, ngôi nhà khang trang kiểu biệt thự hiện đại của ngư dân Nguyễn Thành Sơn (49 tuổi, tổ dân phố Hải Tân, phường Sa Huỳnh) nổi bật giữa xóm nhỏ. Ông Cẩm vừa cười vừa nói: "Thằng Sơn đi săn cá kiếm mà dựng được cơ ngơi vậy đó. Không phải ngư dân nào cũng làm được đâu!"
Câu chuyện đời làm biển của ông Nguyễn Thành Sơn từ hai bàn tay trắng bước lên thành một trong những chủ tàu thành công nhất vùng biển Mỹ Á, trở thành tấm gương cho rất nhiều người làm theo. Người dân làng chài nơi đây luôn xem ông như một "người đi đầu" trong nghề biển.
Ấn tượng đầu tiên khi gặp ông Sơn là làn da sạm nắng, đặc trưng của những người dành phần lớn cuộc đời chống chọi với sóng gió. Tính ông ít nói, từng câu chuyện được kể chậm rãi nhưng chắc nịch. "Mặn mòi biển cả" dường như thấm trong từng cử chỉ của ông.

Ngư dân Nguyễn Thành Sơn vừa trở về sau chuyến biển đánh bắt cá kiếm
Ông Sơn kể, ông bắt đầu theo tàu đi biển từ năm 18 tuổi. Khi ấy, phần vì muốn học nghề, phần muốn đỡ đần gia đình. Hai năm đi bạn, sống với biển nhiều hơn sống trên bờ, ông Sơn gom góp được một khoản nhỏ. Năm 20 tuổi, khi bạn bè cùng trang lứa còn đang bươn chải việc đồng áng, ông mạnh dạn mua con tàu công suất 33 CV, dài gần 13 mét để đi biển. "Lúc đó, có tàu rồi là quý lắm. Chỉ mong đi được xa hơn, đánh trúng nhiều hơn" - ông nhớ lại.
Ngày ấy, đánh bắt vùng lộng còn thưa tàu, hễ nghe ở đâu có cá nổi thì cả nhóm lao đến. Có khi "phi" tận vùng Dung Quất, có khi vòng qua Sa Kỳ. Mỗi chuyến biển là một lần thử vận may, nhưng cũng là lúc ông học thêm kinh nghiệm thực tế từ những người đi trước.
Một ký ức khó quên với ông là chuyến trúng lớn năm 2005. Kéo lưới lên thấy cá nhiều quá, ai cũng vừa mừng vừa run. Sợ rách lưới thôi chứ cá thì đầy ắp. Chuyến biển đó thu gần 5 tấn cá, bàn với số tiền mấy chục triệu đồng thời điểm xăng dầu còn rẻ, vàng chưa đến 1 triệu đồng/chỉ. "Đi bạn mỗi năm kiếm 50–60 triệu là mừng rồi, còn chủ tàu thì được nhiều hơn nữa" - ông cười hiền.
Đến năm 2006, khi đang "làm nên ăn ra" từ con tàu thì cơn bão số 1 (bão Chanchu) bất ngờ ập vào đánh hư hỏng nặng con tàu dù ông đã neo đậu cẩn thận. Sau khi bão rút, nhìn con tàu không thể tiếp tục ra khơi, ông quyết định vay mượn người thân, đóng mới con tàu khác, đầu tư thêm nhiều ngư lưới cụ, tiếp tục vươn khơi.
Nhờ kinh nghiệm đi biển dày dạn, trong vài năm đầu tiên đi biển trên con tàu mới, ông nhanh chóng trả được những món nợ đã vay để đóng tàu, tích góp vốn liếng.
Đổi mới để phát triển – bí quyết của nghề biển hiện đại
Những năm sau đó, ông Sơn liên tục nâng cấp tàu, thay lưới, đổi máy mới. "Có đồng nào lại đầu tư đồng đó. Sợ nhất là thua người ta vì lưới cụ kém" - ông nói.
Đến năm 2018, ông Sơn mạnh dạn đầu tư gần chục tỉ đồng đóng con tàu dài 16,5 mét, rộng 5,2 mét, công suất 718CV cùng bộ ngư lưới cụ nặng hơn 3 tấn, để đánh bắt cá kiếm. Tàu chủ yếu hoạt động giữa hai ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa, nơi có nguồn cá kiếm phong phú.
Theo lời ông Sơn, cá kiếm trung bình nặng 200-300 kg, có khi tới 500 kg, bơi nhanh và thường nổi gần mặt nước săn mồi. Để bắt được loài cá mạnh mẽ này, tàu phải liên tục chạy đón đầu, có lúc phải vòng lên phía trước để chặn đường. Một mẻ bắt được 3–4 con cá kiếm đã xem như "trúng lớn". Nếu được 5–6 con, tàu coi như thắng đậm. Mỗi con 200–300 kg, bán 45.000–60.000 đồng/kg, giá trị mỗi chuyến biển là con số không hề nhỏ.

Căn nhà khang trang của ngư dân Nguyễn Thành Sơn
Nhờ am hiểu ngư trường và sử dụng lưới cụ hiện đại, để đánh bắt cá kiếm, tàu ông gần như chưa bao giờ lỗ. Trung bình mỗi phiên biển kéo dài khoảng 20 ngày, thu về 15–20 tấn cá kiếm, tương đương 300–500 triệu đồng. Có thời điểm, chỉ 5 ngày ra khơi, tàu đã đánh được 7 tấn cá, thu 400 triệu đồng.
Dù giá nhiên liệu biến động mạnh, ông Sơn luôn cố gắng trả công thuyền viên ổn định, với mức tối thiểu 10 triệu, nhiều 30 triệu mỗi chuyến. "Mình có thì anh em đi bạn cũng phải có. Có vậy mới gắn bó với nhau lâu dài" - ông nói.
Khi hỏi vì sao tàu ông thường xuyên "trúng", ông Sơn chỉ cười: "Tui chịu khó ghi lại tất cả thôi!". Trong cabin tàu, ông giữ cuốn sổ ghi chép từng chuyến về vị trí cá, độ sâu, màu nước, thời điểm cá nổi, hướng dòng chảy... Gặp vùng nước đổi màu từ xanh sang đục, ông lập tức cho tàu chạy theo vì đó là dấu hiệu đàn cá đang di chuyển.
Ông còn nắm được quy luật "cá nổi theo trăng". Từ tháng Giêng đến tháng 2 Âm lịch, khi trăng lặn, cá kiếm xuất hiện nhiều hơn. Có chuyến nhờ bám con nước theo cách này mà tàu ông bắt đến 8 tấn cá. Thu nhập ổn định giúp ông Sơn xây nhà lớn, nuôi hai con ăn học thành đạt và trở thành một trong những chủ tàu vững chắc nhất vùng biển Mỹ Á.
Không chỉ làm giàu cho gia đình, ông Sơn còn được bà con quý mến vì sự hào sảng. Trong làng có ai gặp khó, chỉ cần ghé nhà, ông đều hỗ trợ ngay. Hơn chục hộ ngư dân trong vùng từng nhận khoản tiền giúp đỡ của ông mà không bị đòi hỏi bất cứ điều gì.

Ngư dân Nguyễn Thành Sơn (bìa trái) trên con tàu của mình
Ông còn là người đầu tiên trong vùng đứng ra vận động quỹ tương trợ ngư dân. Sau mỗi chuyến biển, các tàu góp 200.000–400.000 đồng, tàu nào trúng lớn góp cả triệu. Quỹ này dùng để hỗ trợ các gia đình gặp nạn trên biển, giúp họ dựng lại tàu, mua lưới hoặc trả tiền dầu để tiếp tục bám biển.
Một trong những lần ông nhớ nhất là vụ cứu nạn tháng 11-2019. Khi hay tin 8 ngư dân Quảng Bình bị ngộ độc ốc ngoài khơi Lý Sơn, ông lập tức cho tàu chạy tới, đưa họ vào bờ cấp cứu. Nhờ kịp thời hỗ trợ, 7 người được cứu sống. "Thỉnh thoảng mấy anh em Quảng Bình vẫn gọi hỏi thăm. Đi biển nguy hiểm lắm, nhưng nhờ có tình người mà tụi tui sống được với nghề", ông Sơn bộc bạch.
Ở tuổi gần 50, ông Sơn vẫn đều đặn 15–18 chuyến biển mỗi năm. "Còn sức thì còn đi. Ở nhà một bữa vẫn thấy nhớ biển", ông cười. Mong muốn lớn nhất của ông hiện nay không phải là thêm tiền, mà là giữ nghề cho con cháu, giữ được vùng biển truyền thống của quê hương.
Ông Võ Xuân Cẩm nhận xét: "Sơn là người đi đầu trong đầu tư công nghệ đánh bắt. Thấy nó làm ăn được, nhiều tàu khác học theo và khá lên rõ rệt. Nó sống nghĩa tình lắm, trúng cá là gọi mấy tàu anh em tới cùng đánh để ai cũng có phần".
Câu chuyện của ông Sơn là điển hình cho xu hướng đánh bắt mới của ngư dân luôn đầu tư ngư cụ hiện đại, làm nghề có tính toán. Những năm bão tố liên tiếp khiến nhiều gia đình thiệt hại nặng, nhưng những người như ông đã chứng minh rằng nếu biết đổi mới, biển không chỉ là thử thách mà còn là cơ hội.
"Hiện nay, nhiều tàu trẻ ở Mỹ Á, Sa Huỳnh đã noi theo cách làm của ông Sơn, đầu tư lưới, sử dụng máy định vị thế hệ mới, ghi nhật ký biển theo từng chuyến, phối hợp liên lạc giữa các tàu để tránh rủi ro và tìm ngư trường hiệu quả hơn. Nhờ đó, sản lượng đánh bắt của địa phương tăng ổn định trong những năm gần đây" - ông Cẩm cho biết.
Bình luận (0)