Nhìn vẻ ngoài thong dong, nhiều chuyện vui rôm rả, không ít người nghĩ chắc ông nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh bạn nhiều, đi nhiều, ham chơi lắm. Mà đúng là ông nhà thơ này nhiều bạn, đi nhiều thật, song ông không ham chơi mà ngược lại, ông đi và viết đều, viết khỏe.
Nguyễn Vũ Quỳnh ra mắt thi phẩm thứ 9
Sau tập thơ thứ 8 xuất bản năm 2023, ông có hai bản thảo nối nhau chào đời và vừa ra mắt thi phẩm thứ 9, “Bài thơ cánh võng”, NXB Hội Nhà văn.
Thấm thoắt đã 50 năm đất nước thống nhất. Đã hai thế hệ từ ngày đó sinh ra, lớn lên, trưởng thành, cùng đất nước từng bước vươn lên, phát triển vững vàng trên trường quốc tế. Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vũ Quỳnh từng có một thời tuổi trẻ giã từ làng quê miền Bắc ra trận, vào sinh ra tử trên nhiều chiến trường, đã qua những cung đường Trường Sơn huyền thoại.
Cũng từ đây tôi nhớ có lần ông đã viết bài thơ “Nụ hôn chiến trường”: Nụ hôn chiến trường: ”Ai ra Bắc nhắn mẹ tôi/ Con đang canh giữ cổng trời Trường Sơn/ Khốc liệt còn chỗ nào hơn/ Mà ta vẫn có nụ hôn chiến trường”.

Nụ hôn người lính của Nguyễn Vũ Quỳnh
Trường Sơn thời ấy là như vậy, đã thành một phần quan trọng của đời ông tuổi trẻ. Là chiến đấu, cùng bao đồng đội không ngại hy sinh tuổi thanh xuân, chỉ một mục tiêu, ước nguyện non sông hòa bình, thống nhất, đất nước độc lập, tự do nhưng thời đó “Khốc liệt còn chỗ nào hơn/ Mà ta vẫn có nụ hôn chiến trường”.
Chắc chỉ có người lính Nguyễn Vũ Quỳnh mới dám viết nụ hôn người lính lúc ra trận như vậy.
Nhiều người đã ngã xuống, hy sinh cho ngày độc lập. Có người sau hòa bình cũng qua đời vì ốm đau, thương tật. Những người còn sống không quên họ, những đồng đội chia nhau bát cơm, ngụm nước chiến trường.
Viếng đồng đội ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nhà thơ viết:
“Trường Sơn viếng bạn đi xa/ Hình như cậu ấy về nhà thăm quê/ Nghĩa trang giòn giã tiếng ve/ Mà sao vẫn thấy suối khe thì thào”
Đồng đội của ông không mất đi, “Chỉ đi xa. Về thăm nhà. Nén hương cong. Vuốt khúc đồng dao. Nhắc tên đồng đội…”. Bởi họ là:
“Đồng đội toàn những ngôi sao/ Lời ru đất nước khắc vào Trường Sơn/ Những người ly biệt quê hương/ Để bao xương máu thành đường Trường Sơn” (Khắc vào Trường Sơn)
Không chỉ khắc ghi tên trên dòng mộ chí, lời ru đất nước khắc vào tâm khảm Trường Sơn, một ý thơ sắc sảo, đầy ấn tượng. Trong chiến đấu, máu xương bao người đổ xuống thành đường Trường Sơn huyền thoại. Những tháng năm đẹp nhất đời người ghi dấu ở nơi đây. Từ trong thẳm sâu ký ức, trong mạch nguồn cảm xúc thiêng liêng, những câu thơ đẹp đã được khai sinh.
Dòng thơ Nguyễn Vũ Quỳnh viết về những tháng ngày chiến đấu ở Trường Sơn luôn đầy máu lửa, hào hùng và không thiếu hào hoa của lính trận bên cạnh những đau thương mất mát lớn lao của những người tuổi trẻ.
Nguyễn Vũ Quỳnh tái hiện không gian Trường Sơn
Tập thơ này nối tiếp mạch cảm xúc sâu đậm về Trường Sơn, đã thành máu thịt với nhà thơ qua những câu thơ da diết, chân thành. Không gian Trường Sơn tái hiện trong thơ, những cánh rừng, những ngả đường chiến dịch.
Những đoàn quân nối nhau ra trận, sau những trận đánh, những trận bom là phút nghỉ ngơi bên cánh võng. Sống và chết. Máu và hoa. Trăng treo đầu võng. Nên thơ. Hào hùng.
Đẹp trong sắc màu bi tráng mà chỉ người trong cuộc, người lính trong hoàn cảnh ấy mới thấu cảm, để hoài thai những câu thơ để lại cho đời.
Xin bật mí trong tác phẩm này có bốn thi phẩm ông viết từ thời còn là học sinh và cả khi mới vào chiến trường. Đó là các bài: “Sân trường mùa phượng cuối - Đồng quê mùa Hạ lụt - Trăng treo đầu võng - Vầng trăng khuyết”. Nhà thơ mới nhận lại được các bài thơ này từ một bạn gái đã lưu giữ trên 50 năm trao lại, giờ mới có dịp ra mắt bạn đọc. Quả là thi vị. Thơ đã phát tích trong đời Nguyễn Vũ Quỳnh từ thời rất trẻ.
Cánh võng là một thi ảnh đẹp, làm sáng chủ đề, tựa đề tập thơ. Sinh ra ở làng quê, mẹ đưa nôi, đưa võng. Tiếng ru của mẹ đi vào tiềm thức. “Đường quê mẹ bóng trăng tròn/ Giống như cánh võng ru còm mẹ tôi”.
Cánh võng đó, cùng tiếng ru của mẹ, đưa nhà thơ đến những chân trời mới khi rời xa quê. Tâm hồn thi sĩ được gieo từ tâm tình người mẹ:
“Mẹ mắc câu thơ lên hai đầu cánh võng/ Tiếng ru đêm trao vốn liếng làm người/ Mẹ ru tình đất nước/ Mẹ hôn cả khóc cười”.
…“Lời ru gom cả trời xanh/ Mặt trời ngoan, ngủ ngon lành với đêm/ Mai này con nhớ đừng quên/ Bài thơ cánh võng bên thềm… à ơi” (Bài thơ cánh võng).
Vào lính, võng là vật bất ly thân qua những chiến trường, đêm giữa rừng ngắm trăng treo đầu võng:
“Cánh rừng vắng gió chờ mưa/ Bài ca cánh võng đong đưa nỗi niềm..…Ngày xưa đi học quá giang/ Bây giờ nỗi nhớ xếp hàng trong tôi…. Rừng ru ta Tiến quân ca/ Trăng treo đầu võng hóa ra quê nhà” (Trăng treo đầu võng).
Những câu thơ vừa hay, vừa độc đáo
Nguyễn Vũ Quỳnh có nhiều câu thơ vụt sáng. “Nỗi nhớ xếp hàng”, vừa hay vừa độc đáo; “Trăng treo đầu võng hóa ra quê nhà” quá đúng với người lính Trường Sơn. Người ta thường nói mùa xuân, mùa hoa, mùa chim làm tổ, song “Có mùa con gái giữa Trường Sơn” thì đúng là không dễ gì viết được như Nguyễn Vũ Quỳnh:
“Dưới vòm trời những cung đường mới mở/ Ta gặp mùa con gái giữa Trường Sơn/ Các chị làm nên vóc dáng hình hài/ Thi vị một thời mở đường đi cứu nước/ Hương thơm đầu đời dâng rừng núi Trường Sơn”.
Cũng bài thơ “Có những nụ cười đẹp như hoa hậu”, tác giả có những phát hiện tinh tế. Biết bao ngả rừng với những mùa hoa đẹp nở miên man, song những người nữ Thanh niên xung phong dấn thân làm nhiệm vụ, bỏ lại những mùa hoa không hái:
“Các chị ơi, nhớ một thời đánh Mỹ/ Từng bỏ quên những mùa hoa không hái/ Nơi cất giữ một thời con gái/ Hơn triệu đóa hoa hồng vì đất nước hôm nay”.
Có thể nói, cảm xúc chủ đạo trong những tập thơ của nhà thơ một thời áo lính Nguyễn Vũ Quỳnh là tình yêu quê hương, đất nước. Vì đất nước, những người thanh niên xa làng quê ra trận, chiến đấu; đất nước và làng quê hiện thân trong hình bóng mẹ hiền, mẹ là quê hương đất nước. Mạch nguồn cảm xúc này không bao giờ cạn, nhất là khi nhà thơ đi nhiều, sống qua nhiều gian khổ, nhận ra những giá trị tinh túy của đời sống, được hưởng lộc của thi ca qua những bài thơ tạo nên danh tiếng trên thi đàn.
Những vần thơ ấn tượng về dòng sông
Với Nguyễn Vũ Quỳnh, không chỉ Thanh Hóa, Nghệ An là hai miền quê yêu dấu của gia đình, dòng họ mà sông Mã, sông Lam, hay sông Hậu đều là quê hương, được khắc họa bởi những vần thơ đẹp, khi một thời tuổi trẻ ông cũng dọc ngang khắp mọi miền đất nước. Ông viết những bài thơ về những dòng sông để lại những vần thơ đầy ấn tượng làm cho người đọc khó có thể quên được:
“Ta mang sông đi khắp phương trời xa lạ/ Mới hiểu chẳng nơi đâu thánh thiện tựa quê mình” (Sông Mã quê ơi).
“Hương nước sông Lam kỳ diệu lắm/ Giặt sáng tắm chiều, mai vẫn còn thơm….Sông Lam hát ru làm mây trời bớt nám / Đời sông ngân vang thao thức mãi câu Kiều” (Tự tình với sông Lam).
“Sông Hậu tắm trăng lả lướt với cánh đồng/ Châu thổ tạc trời vào sông nước mênh mông” (Nơi em ở đầu sông). Viết về dòng sông như vậy quả là thánh thiện thật. Với bút pháp và ngôn ngữ ông đã tạo dựng nên bức tranh quê đẹp.
Hầu như nhà thơ nào cũng viết về mẹ, song có thể nói Nguyễn Vũ Quỳnh là số ít nhà thơ viết về mẹ hay và xúc động:
“Bao nhiêu lời và bao nhiêu bài thơ/ Chưa đi hết nỗi nhọc nhằn cây lúa/ Bao nhiêu đứa con, bao nhiêu lời chan chứa/ Không ghi hết nỗi đau khi hạt thóc mất mùa” (Mẹ và cây lúa ngày xưa).
Bài thơ kết với những câu lục bát xúc động tâm can:
“Mẹ ơi con đã mồ côi/ Chỉ còn hạt gạo đầy nồi. Ca dao/ Tiếng quê bên gốc đa cao/ Vẫn còn nguyên vẹn gió lào ngày xưa/ Hạt thóc gội nắng tắm mưa/ Làm tôi nhớ mẹ cày bừa nên quê”.
Trở về rảo bước trên đường quê, càng bâng khuâng nhớ mẹ. Bài thơ ông viết dâng mẹ nhân ngày Mẹ nhận huy hiệu 70 năm tuổi Đảng cũng là lúc mẹ đã về miền xa thẳm. Những câu thơ chất chứa yêu thương, lòng biết ơn sâu nặng:
“Đời quê lạnh. Vẫn nồng ấm con tim/ Thân cây lúa in dáng hình bóng mẹ/ Để hạt gạo thành bát cơm san sẻ/ Giọt mồ hôi tràn nắng xế buổi trưa”
Mẹ gắn với tảo tần, vất vả, hy sinh tất cả vì gia đình, chồng con, đất nước. Hình ảnh mẹ với tấm lưng cong mà cao cả biết bao:
“Thời hai tám, ba mươi khi bóng xế hoàng hôn/ Luống cày thẳng, uốn cong lưng mẹ” (Bài thơ tặng mẹ)
Những vần thơ nặng ân tình
Thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, như con người ông, luôn nặng nợ ân tình. Thơ ông giàu cảm xúc, nhiều chất liệu sống, đậm ý nghĩa nhân văn. Ông là nhà thơ nặng lòng với nghiệp thơ, luôn trọng nghĩa trong từng câu chữ. Nhiều chỗ ông viết ra giản dị, thoạt tưởng nhẹ nhàng song hàm súc ý tưởng và mang nặng tình ý. Phải là nhà thơ đích thực, tràn trề cảm xúc và chất thi sĩ mới viết ra được những câu thơ hay về chùa Hương trong sắc hoa gạo bồi hồi:
“Người xưa nơi đỉnh chon von/ Gieo thêm hoa gạo để còn hôm nay ….Tiễn ai sang bến em chèo/ Qua Giêng trống vắng lưng đèo câu thơ” (Ngẫu hứng Chùa Hương).
Ông có những câu thơ buồn man mác khi làng quê nay đã bê tông hóa lời ru con hầu như không còn với những bà mẹ trẻ:
“Thiếu ca dao, dân ca vắng câu lục bát/ Mẹ thời nay không biết hát ru hời”. Phải chăng nỗi đau của hiện thực văn hóa nuôi dưỡng, trồng người đang mai một trong xã hội ngày nay được nhà thơ cảnh báo? (Xa rồi lời ru).
Trong nỗi khuya, ký ức cứ tràn lên, dưới mái nhà xưa của làng quê khi cha mẹ đã đi vào miền mây trắng. Ông viết: “Ngơ ngác tìm áo nâu dáng Mẹ/ Chạm vào ngày xưa thời thơ ấu của mình/ Chiếc cối đá chơ vơ đơn bóng lẻ hình/ Bếp lửa không còn, đống củi khô mại mục/ Mẹ về phía bên kia cánh đồng tát nước/ Còn để câu ca dao ở phía dây gầu” (Mẹ để câu ca dao ở phía dây gầu).
Và cả tình yêu tuổi trẻ mấy khi nguyên vẹn, ai cũng có những gì dang dở. Trong khoảng trời ký ức vẹn nguyên cho một tình yêu trẻ dại, thơ cũng như người, hờn trách cũng bằng không:
“Lời xưa hóa giận thành men/ Nếu mà trọn vẹn cây kem đã giòn/ Ông trời nắng chẳng chịu khôn/ Cơn mưa trẻ lại nụ hôn trở về” (Nụ hôn trở về).
Long đong số phận bài thơ tình
Lúc còn trẻ, nhà thơ đã làm bài thơ “Vầng trăng khuyết”, nhắc chuyện trước lúc chia tay người yêu để ra trận, nhà thơ muốn thưa với cha mẹ hai bên “chuyện chúng mình” nhưng không kịp vì phải lên đường. Rồi đến khi đất nước thanh bình, bài thơ tình có số phận long đong, vận vào hai người, tình yêu như vầng trăng khuyết: “Nỗi buồn vắt ngang dòng sông ly biệt/ Để bây giờ hoa bưởi trắng vườn khuya”.
Sau những nỗi niềm của một thời trai trẻ, điều đọng lại trong đời thơ Nguyễn Vũ Quỳnh là trọn vẹn nghĩa tình, trách nhiệm với quê hương, đất nước, gia đình.
Ông dành những lời chân thành cho người vợ tào khang, cả đời hy sinh vì chồng con. Với ông, người vợ trẻ đã “nhuộm màu thời gian trong anh”, cho ông cả không gian, xanh mãi những ước mơ. Tình yêu đó đã đơm hoa kết trái hạnh phúc cho đời người, cho những câu thơ vang lên giai điệu ân tình:
“Mang theo tình yêu, em thành vợ lính/ Mối tình đầu của em đi suốt cuộc đời anh/ Anh không quên kỷ niệm tuổi thanh xuân/ Mà dành tình yêu cho chúng mình tất cả/ Anh làm nắng đời dịu đi oi ả/ Giữ mát cho em thong thả bước đường chiều” (Em là thời gian anh).
Một đời thơ của người thơ đắm đuối như Nguyễn Vũ Quỳnh, với gia sản thơ đầy đặn, đã là thành công văn nghiệp. Ông viết trong “Dan díu với thơ” rằng từ thuở đầu đời cùng thơ đi suốt dải Trường Sơn, thơ bên cánh phong lan, ba lô, cây súng, thơ làm bạn tâm giao trên khắp mọi miền, thơ nuôi khát vọng, tình yêu, thơ như ngọn gió lành. Ông trích hai câu làm đề từ cho thi phẩm này:
“Vần điệu ước mơ tâm tình mở lối
Thơ nhân văn hóa kiếp mọi hận thù”
Đó cũng là một sứ mạng của thơ. Tác phẩm “Bài thơ bên cánh võng” như đang hòa vào lời ru, gieo vào tâm trí mọi người những kỷ niệm về bài ca giữ nước. Nơi tình yêu quê hương và sự kính trọng tổ tiên ông bà cha mẹ đã nuôi dưỡng nên người.
Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh với bút pháp bình dị nhẹ nhàng ý nhị mà sâu sắc, được hôn đúc nên tâm hồn thời đại, bởi Việt Nam đất nước của nụ cười. Thơ ông mang đậm phong cách của ông với ngôn ngữ chân chất mà dịu vợi, đem lại yêu thương, hòa hiếu, đem lại sự đồng cảm tâm hồn Việt, đem lại cái đẹp cho cuộc đời này. Chúc mừng nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh với tác phẩm “Bài thơ cánh võng” của những vần thơ đẹp, hàm súc, dịu vợi của đời thơ ông.
Bình luận (0)