Bây giờ đã nửa cuối tháng 11 âm lịch, những cơn mưa kéo dài đã qua, lúa trên rẫy chín vàng. Những chàng trai cô gái Kor ở các huyện miền núi Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng Ngãi mang gùi lên rẫy tuốt lúa. Sau đó, theo từng nóc, bà con tổ chức ăn Tết Ngả rạ mừng mùa lúa mới. Những bản làng nằm sâu trong đại ngàn lại thức cùng tiếng chiêng.
Phô diễn đến tận cùng
Ông Hồ Văn Biên (ngụ thôn Đông, xã Trà Sơn, huyện Trà Bồng) sau khi ngửa cổ uống một chén rượu đầy đã đưa tay đón chiếc a tớp (chiêng vợ) từ lũ làng rồi dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái của bàn tay trái xỏ vào dây chiêng. Tay phải cầm chiếc dùi bằng cây săng và gõ. Tiếng chiêng trong trẻo ngân vang.
Đội đấu chiêng và múa cà đáo ở xã Trà Hiệp biểu diễn trong Tết Ngả rạ
Nghe tiếng chiêng của ông Biên, anh Hồ Văn Huy cũng rời ché rượu, cầm ngay cái toôk (chiêng chồng) nhỏ hơn, nhảy ra sân thi đấu cùng ông Biên.
Cũng như ông Biên, anh Huy điều khiển nhịp chiêng bằng khuỷu tay thật điệu nghệ. Thấy vậy, anh Hồ Văn Vương vớ cái agơl (trống) đeo vào trước ngực rồi khum bàn tay vỗ vào hai mặt trống. Đại ngàn vang vọng tiếng chiêng. Theo nhịp chiêng lúc khoan thai, lúc dồn dập, lúc bổng, lúc trầm, đầu ông Biên và anh Huy lắc lư, bắp tay bắp chân trào lên cuồn cuộn. Nét đẹp hình thể của người đàn ông Kor được phô diễn đến tận cùng.
Lũ đàn bà con gái trong bản thấy cánh đàn ông vào cuộc đấu chiêng, cũng xếp thành hàng bắt đầu điệu múa cà đáo. Những bước chân nhịp nhàng uyển chuyển, những thân hình lắc lư theo nhịp trống, nhịp chiêng.
Nên duyên chồng vợ
Với người Kor, chiêng là nhạc khí thiêng góp phần làm nên hồn cốt của dân tộc mình. Một năm vất vả đi qua mùa khô nắng cháy, mùa mưa lũ nguồn ào ạt, Tết Ngả rạ về là tưng bừng đấu chiêng. Một trận đấu chiêng ngoài hai người thi đấu còn có thêm một người đánh trống cổ vũ và có lúc để dàn hòa.
Đàn ông đấu chiêng thì đàn bà Kor múa điệu cà đáo
Để có một bộ chiêng tốt ngày xưa, nhà giàu trong bản phải đổi một đôi trâu đực sừng to hơn nắm tay cho người Kinh ở làng đúc đồng Phước Kiều (Quảng Nam).
Cha của ông Biên trước đây có những bộ chiêng quý do nhiều thế hệ truyền lại. Đến đời ông, như điều bình thường, ông tập cho con cùng trai trẻ trong làng đấu chiêng. Hằng năm, đến Tết Ngả rạ mừng mùa lúa mới (bắt đầu từ tháng 11 âm lịch) hay trong lễ hội ăn trâu, cha ông Biên mới mang chiêng xuống tấu để nghênh đón thần linh và mời tổ tiên về dự, sau đó mới cho phép trai làng mang ra đấu.
Lúc đó, ông Biên lưng trần đóng khố cùng cánh trai làng lúc thì làm chủ trận đấu ở nóc của mình, lúc thì sang các nóc lân cận cùng chung vui uống rượu và đấu.
Cô Hồ Thị Phượng (ngụ thôn Tây) sau khi xem những trận đấu chiêng mà mê tít anh chàng Biên bởi sức sống tuôn trào với nhịp chân nhẹ nhàng và bắp thịt phô diễn cuồn cuộn khỏe khoắn theo nhịp chiêng, nhịp trống. Điều rất tuyệt vời là chàng Biên chưa bao giờ phải đưa chiếc dùi trồng bằng cây săng mềm lên quá đầu để báo hiệu thua cuộc trong các trận đấu chiêng.
Cô Phượng có cảm tình với chàng Biên nên cánh trai làng thôn Tây nhiều lần dạm hỏi mà vẫn lắc đầu. Để rồi, sau những mùa trăng hò hẹn, đôi lứa nên vợ nên chồng trong một đám cưới tràn ngập tiếng chiêng.
Cũng từ đó, bao mùa đi qua, dòng sông Hà Riềng, sông Tang lúc khô cạn, lúc dâng lên quét cả đôi bờ nhưng đến Tết Ngả rạ hay lễ ăn trâu, vợ chồng anh Biên lại cùng nhau thu xếp chuyện nhà để tham gia đấu chiêng và múa cà đáo với lũ làng.
"Những ngày đó, dù bận đến mấy mình cũng cố gắng thu xếp để tham gia chứ nếu không là bứt rứt trong lòng" - ông Biên bộc bạch.
Cũng vì mê đấu chiêng nên đến bây giờ đã ngoài ngũ tuần nhưng từ lễ hội làng Sen ở Nghệ An đến các hội diễn văn nghệ các dân tộc Việt Nam ở Tây Nguyên, ở Tây Bắc, ngành văn hóa thông tin tỉnh Quảng Ngãi đều chọn ông Biên tham gia tiết mục đấu chiêng. Rồi cũng từ đấu chiêng hay, ông được đề cử là nghệ nhân dân gian toàn quốc.
Anh Hồ Văn Huy kể: "Mấy năm trước, ở lễ hội làng Sen quê Bác, đoàn Quảng Ngãi tham gia lễ hội với nhiều tiết mục của các dân tộc. Đi trong đoàn có cô gái người Ca Dong thấy mình đấu chiêng nên có cảm tình. Nhưng mình đã có vợ rồi nên lắc đầu, không đi xa hơn tình cảm của các thành viên".
Âm thầm mở đợt điều tra
Anh Nguyễn Thanh Tùng, Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Trà Bồng, cho hay dàn chiêng của người Kor chỉ có hai chiếc chiêng bằng không có núm và gõ vào mặt trong của chiêng. Đấu chiêng hấp dẫn là vậy nhưng giữ cho tiếng chiêng ngân vang trên đại ngàn qua nhiều thế hệ cũng không dễ dàng.
Những năm 2007, cánh buôn bán đồ cổ từ các huyện đồng bằng lên Trà Bồng lùng sục tìm mua chiêng, ché, nồi đồng với giá khá hời nên đồng bào ở nhiều bản làng người Kor thi nhau bán. Nạn "chảy máu" chiêng choé đến mức già làng Hồ Văn Tuấn ở thôn 2, xã Trà Thủy phải thốt lên: "Cứ đà này rồi chẳng còn nhạc khí của dân tộc Kor mình nữa". Thế là Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Trà Bồng âm thầm mở một đợt điều tra tại 10 xã trong huyện, may mà còn 1.500 bộ trống chiêng. Sau khi điều tra, đơn vị cấp báo lên huyện và Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi đề xuất cho phép xây dựng đề án Bảo tồn và phát huy một số di sản văn hóa của dân tộc Kor, trong đó đặc biệt chú trọng bảo tồn đấu chiêng.
Đã quá ngũ tuần nhưng nghệ nhân Hồ Văn Biên (bìa trái) vẫn say mê đấu chiêng
Chị Hồ Thị Bích Liểu, người dân tộc Kor, cán bộ Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Trà Bồng, kể: "Sau khi đề án được phê duyệt, chúng tôi tiến hành hợp đồng với ông Hồ Văn Biên và anh Hồ Văn Đách (ngụ xã Trà Hiệp) mở lớp dạy tấu chiêng. Bản thân mình hướng dẫn múa cà đáo ở 7 xã trong huyện. Ông Hồ Nhật Lệ còn có nhiều ý kiến đóng góp để tiết mục đấu chiêng càng hấp dẫn hơn".
Từ sau khi có những lớp dạy đấu chiêng, huyện Trà Bồng hầu như năm nào cũng tổ chức hội đấu chiêng trên cơ sở 10 xã trong huyện để chọn ra đội xuất sắc nhất. Ngày hội đấu chiêng trở thành ngày sôi nổi nhất của người Kor trên đất quế Trà Bồng.
Trời nhập nhoạng, ánh đuốc bùng lên. Một già, một trẻ càng đấu càng say, tiếng chiêng bay qua những nóc nhà, lên tận núi Cà Đam, âm vang cả rừng quế, xua tan cái lạnh mùa đông khiến lũ làng say sưa, phấn kích.
Tôn vinh người đàn ông Kor
Theo ông Nguyễn Xuân Bắc, Chủ tịch UBND huyện Trà Bồng, đấu chiêng là một hình thức sinh hoạt dân gian độc đáo của người Kor thể hiện sự tài hoa, phô diễn nét đẹp hình thể, tôn vinh người đàn ông Kor trong việc đấu tranh với thiên nhiên để gìn giữ buôn làng.
Ở huyện miền núi Trà Bồng, đề án Bảo tồn và phát huy một số di sản văn hóa của dân tộc Kor được tỉnh phê duyệt từ năm 2007-2012 với kinh phí 3,1 tỉ đồng để xây dựng 33 nhà văn hóa và mở những lớp học dân ca, dân nhạc, dân vũ. Nhưng khó khăn về kinh phí nên huyện chỉ được cấp 450 triệu đồng. Dù vậy, ngành văn hóa thông tin vẫn mở các lớp tập hát dân ca, dân nhạc, đấu chiêng và hỗ trợ tổ chức ngày hội văn hóa dân tộc Kor ở các xã. Từ sau khi triển khai đề án, các lớp tập huấn đấu chiêng, múa cà đáo được triển khai nên bây giờ đồng bào Kor rất quan tâm bảo tồn văn hóa phi vật thể của dân tộc mình.
CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG HÀNH:
Bình luận (0)