Ngày xuân gia đình người Mạ thường quây quần sum vầy trong căn nhà dài bên bếp lửa hồng cùng trò chuyện, cùng ăn cơm lam, cùng tấu cồng chiêng, cùng uống rượu cần nhằm cảm ơn Yàng đã ban cho cơm no, áo ấm trong suốt 1 năm qua. Rượu cần được người Mạ ví như một nhân chứng, là phương tiện truyền lời của đồng bào đối với Yàng.
Những ché rượu cần người Mạ
Không những thế, rượu cần có mặt trong các dịp lễ lớn trong năm như lễ bỏ mả, lễ mừng lúa mới, lễ ăn trâu… đều tổ chức ở nhà làng (nhà dài). Họ đánh cồng chiêng, nhảy múa, ca hát rồi ăn thịt trâu nướng, uống rượu cần. Các trai gái trong làng vận trang phục truyền thống với nhiều loại hoa văn sặc sỡ. Họ quây quần bên nhau và hát cho nhau nghe những bài hát chứa chan ân tình: “Anh ở bên này ghè rượu/Vít cần trúc cong cong thành một nửa bầu trời/Thành một nửa trái tim mơ hồ gọi một nửa còn bên ấy/Bạn tình ơi!/Bên này trái tim, bên ấy trái tim… Rượu chảy về hai bên, men say còn ở giữa/Lửa phừng phừng bứt tượt áo nuk – kiar/Ơi chân trời lửa bên em sao mà xa ngái thế/Đường gấp khúc trái tim sâu thăm thẳm đáy men nồng…”.
Rượu cần luôn có mặt trong mọi nghi lễ của người Mạ
Ngày xuân, thưởng thức men rượu cần chếnh choáng cùng người thân đoàn viên, thể hiện sự đoàn kết, thương yêu… Mọi người cùng uống với nhau chung cần, già trẻ, trai gái cùng thưởng thức thịt trâu nướng thơm lừng bên bếp lửa.
Là thức uống luôn được mời khi khách đến thăm nhà
Người Mạ là dân tộc bản địa cư trú chủ yếu các huyện phía Nam của tỉnh Lâm Đồng, số lượng tuy ít nhưng là tộc người có nhiều nét văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo. Trong đó rượu cần là một trong những nét văn hóa đặc sắc phản ánh sinh động về đời sống văn hóa, tinh thần của người Mạ tồn tại và phát triển song hành cùng đồng bào từ xưa đến nay.
Rượu cần người Mạ cũng làm "lung lay" những bữa tiệc người miền xuôi
“Để có được men rượu ngon, anh phải lên rừng tìm lá, rễ cây để ủ men. Men rượu giã nhỏ, trộn đều với nếp, qua một đêm, mở ra thấy có mùi thơm ngào ngạt thì cho vào ché, lấy lá chuối khô đậy lại rồi mang đi ủ. Khoảng một tháng sau là rượu chín, nhưng để càng lâu thì rượu càng thơm ngon, nước rượu càng ngọt, nồng chứ không bị chua hay đắng” – chị Điểu Thị Út, người có hơn 30 năm làm rượu cần tuyền thống, chia sẻ.
Một nghi lễ mời rượu cần của người Mạ
Theo ông K’ Lang (chồng chị Út), ủ rượu cần là công việc thường xuyên của gia đình có từ “cổ tích”. Nghĩa là ngay từ khi còn nhỏ, ông đã được cha và mẹ chỉ dạy cho các công đoạn làm nên một ché rượu cần. Thời gian đầu, chị chỉ phục vụ cho nhu cầu gia đình, lâu lâu có ai nhờ thì mới làm. Uống rượu cần của gia đình làm, bà con hàng xóm đều khen rượu ngon. Tiếng lành đồn xa, lượng người đến đặt hàng ngày càng đông nên chị đã mạnh dạn nghĩ đến việc mở cơ sở sản xuất với số lượng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trung bình mỗi năm, gia đình chị ủ và bán trên 300 ché rượu cần, chỉ tính riêng dịp tết là hơn 100 ché với mức giá từ 200.000 – 500.000 đồng/ché.
Rượu được đưa vào ché để ủ
Chị Điểu Thị Út cho biết: “Quy trình làm rượu cần không khó, nhưng để ủ được ché rượu ngon cần có sự khéo tay và chú tâm của người làm. Mỗi ché rượu của từng gia đình có mỗi vị khác nhau, với nhạt, chua, cay, nồng, ngọt, thanh, đậm… Ngoài việc kiếm thêm thu nhập thì làm rượu cần còn là cách để tôi gìn giữ nghề truyền thống của dân tộc”.
Nguyên liệu làm rượu cần chủ yếu là những loại ngũ cốc thông dụng như gạo nếp, gạo tẻ, bắp, sắn... nước suối và men cây rừng. Tùy theo điều kiện kinh tế của từng gia đình và thói quen của từng vùng miền, từng dân tộc, mỗi loại cho một hương vị ngọt ngào riêng. Đối với người Mạ ở lưu vực Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên (Lâm Đồng) thì nguyên liệu được ưa chuộng và phổ biến nhất là gạo tẻ và men bằng vỏ, rễ các cây rừng như Mó, M’năng, Đôn, Hóc Cải Cọp.
Những viên men rượu đậm hương rừng của người Mạ
Chị Điểu Thị Út, chia sẻ: Rượu cần ngon hay không phụ thuộc vào viên men gồm gạo với những loại cây rừng vừa nói. Gạo sau khi được ngâm khoảng 1 giờ đồng hồ sẽ vớt lên để ráo nước và đem giã nhỏ. Làm men rượu cần không được dùng máy xay, mà phải giã bằng tay rượu mới ngon. Vừa giã vừa cho nắm lá, vỏ cây rừng vào chung và giã đều tay. Bột men không giã nhỏ quá, cũng không to quá, sau đó trộn đều với nước và vắt thành bánh. Khi vắt người ta vắt theo hình tròn và hình bầu dục, là biểu tượng trong văn hóa phồn thực của đồng bào Mạ với mong muốn duy trì nòi giống ngày càng phát triển, người phụ nữ luôn là trụ cột của gia đình.
Người đồng bào Mạ lưu vực sông Đồng Nai thuộc tỉnh Lâm Đồng cũng như người miền xuôi, “lời chào” bao giờ cũng “cao hơn mâm cỗ”. Vì vậy, khi được mời uống rượu cần, nếu bạn từ chối, điều đó có nghĩa bạn đang chối từ tấm chân tình của gia chủ và lời chúc cho gia chủ an khang, thịnh vượng.
Ông K' Lang bên những ché rượu đã chín
Rượu cần có hầu hết ở các cuộc vui, buồn của người Mạ. Mỗi cuộc rượu có một cách uống khác nhau. Lời cúng mở rượu cần trước khi uống là nghi lễ không thể bỏ qua ở bất cứ cuộc uống rượu cần nào. Nhưng khác với cách uống rượu cần của đồng bào phía Bắc, người Mạ nơi đây, nếu là lễ làng thì người mời rượu phải là người uy tín trong buôn làng, còn trong gia đình thì người phụ nữ lớn tuổi nhất sẽ là người mời rượu. Theo quan niệm của người Mạ, người phụ nữ mới là trụ cột gia đình, giỏi mời rượu, làm cho ai cũng uống hết mình, vui hết mình, say hết mình.
Tác giả được thưởng thức món rượu cần thơm ngon của người Mạ
Ông Đoàn Ngọc Nam, Chủ tịch UBND xã Phước Cát 2, huyện Cát Tiên (lâm Đồng), trên địa bàn xã hiện có khoảng 10 hộ gia đình dân tộc Mạ vẫn đang giữ nghề làm rượu cần truyền thống để bán ra thị trường. Tuy chưa tạo dựng được thương hiệu nổi tiếng và việc sản xuất chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, nhưng nhờ cách ủ truyền thống, cùng với men rượu đặc trưng nên rượu cần của bà con rất được khách hàng gần xa ưa chuộng. Và đó cũng là cách để bảo tồn văn hóa người Mạ.
Bình luận (0)