Ở làng Hương Quế bên Quốc lộ 1, thuộc xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam có một nhà thờ của tộc Phạm xây dựng từ thời vua Tự Đức. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, nơi đây còn lưu giữ gia phả tộc họ và 6 tờ sắc phong từ các đời chúa Nguyễn, vua Lê; trong đó đại ấn "Đế mạng chi bửu" của vua Lê Thánh Tông và "Chế mạng chi bửu" của vua Lê Thần Tông ban tặng cách đây gần 6 thế kỷ vẫn còn nguyên vẹn, được bảo vệ cẩn thận.
Theo gia phả tộc Phạm ở Hương Quế, bậc tiền hiền vào đây đầu tiên là Phạm Nhữ Dực, con trai thứ 5 của danh tướng Phạm Ngũ Lão đời Trần. Năm 1401, Phạm Nhữ Dực giữ chức Chánh Đô án Vũ sứ phụ trách di dân ở khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi. Cháu nội của ông là Phạm Nhữ Tăng theo vua Lê Thánh Tông vào Nam năm 1471 rồi được phong đến chức Quảng Nam Thừa tuyên Đô thống.
Cụ Phạm Nhữ Tăng mất năm 1478 ở Bình Định, được vua cho cải táng đưa về an nghỉ tại Hương Quế. Trước mộ của cụ hiện vẫn còn câu đối do chính vua viết, tạm dịch nghĩa: "Nghĩa sĩ lắm mưu cơ, góp sức đồng lòng bình Chiêm quốc/ Gương đài thêm rạng rỡ, hương hồn ngàn thuở rạng trời Nam".
Ông Phạm Trợ, người đang được giao trọng trách giữ gìn những tài liệu quý giá nêu trên, nhiều năm trước đã kể lại: Vị tiền nhiệm của ông là cụ Phạm Trí, hậu duệ đời thứ 17 của tộc Phạm, vào định cư ở xứ Đàng Trong. Theo lời trăng trối của các đấng sinh thành là sống chết gì, mỗi thế hệ cũng phải thay nhau giữ cho được gia phả của tổ tiên để lại nên dù chiến tranh, ly tán mấy mươi năm, cụ Trí vẫn mang theo bên mình.
Một lần vào năm 1949, lính Pháp khi lùng sục đốt phá làng đã vào nhà thờ tộc Phạm truy tìm tài liệu, vũ khí của Việt Minh. Chúng lật tung gia phả, những tờ sắc phong và ném bay tứ tán. Khi chúng rút quân, cụ Trí mới đi nhặt lại cất giữ và rất may không có sự hư hại nào. Khi giao nhiệm vụ lại cho ông Trợ, cụ đã sống ngót một thế kỷ nhưng vẫn khiêm tốn: "Việc lớn nhất đời tôi là giữ được nguyên vẹn bửu bối của tổ tiên để lại, cho dù có phải chết đi".
***
Làng Kim Đái - nay thuộc xã Tam Thăng, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam - từ xưa đã nổi tiếng với 2 câu thơ khuyết danh: "Kim Đái đai vàng đâu thuở trước/ Thạch Kiều cầu đá mãi còn đây".
Trong chiến tranh, xóm Ấp Bắc thuộc làng Kim Đái dù chỉ 45 nóc nhà nhưng có đến 70 liệt sĩ và 15 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Địa đạo Ấp Bắc dài gần 2 km ẩn sâu dưới những lũy tre làng đã góp phần cùng với địa đạo Kỳ Anh gần đó lập nên nhiều chiến tích vẻ vang ở Quảng Nam. Ông Trương Đưa, trưởng tộc Trương ở đây, là một trong những người tham gia bám trụ, đào địa đạo nhiều năm. Ông đã bị lính Mỹ bắn chết trong một hoàn cảnh rất hy hữu và hết sức cảm động vào năm 1969.
Hôm ấy, xóm Ấp Bắc chìm trong lửa đạn. Lính Mỹ từ căn cứ Chu Lai mở cuộc hành quân càn quét vùng ven biển. Nhà thờ họ Trương bị đốt cháy. Là trưởng tộc, ông Đưa quyết bảo vệ cho được bộ phả hệ của dòng họ đang bị nguy cơ biến thành tro. Ông quyết xông vào lửa ôm lấy ống tre đựng bảo vật của dòng họ, chạy thoát ra ngoài. Lính Mỹ tưởng Việt cộng ôm súng liền bắn theo.
Bị trúng đạn, ông Đưa vẫn cố chạy được qua vài đám vườn rồi ngã quỵ xuống một bờ rào trước khi tắt thở. Bộ phả hệ vẫn được ông nắm chặt trước ngực bằng đôi tay nhuốm đầy máu. Sau trận càn, dân làng, vợ con đã chôn cất ông Đưa trong nước mắt và mang bộ phả hệ ấy về giữ cho đến ngày hòa bình.
Ông Trương Văn Cận, cựu giám đốc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Nam, là cháu họ ông Đưa, từ miền Bắc trở về làng Kim Đái sau chiến tranh. Ông bày tỏ: "Bước vào nhà thờ tộc, khi nhìn lại bộ gia phả của tộc mình vẫn còn đó sau biến cố đau lòng những năm trước, không ai cầm được nước mắt. Câu chuyện của cụ Trương Đưa cho đến giờ luôn là bài học, tấm gương của con cháu những thế hệ tiếp theo trong tộc tôi".
***
Ông Bảy Câu - tức nhà nghiên cứu Võ Ngọc An, nay là Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu dòng họ - cách đây mười mấy năm đã lặn lội khắp Nam Bộ, nghiên cứu các tài liệu Hán Nôm, nhật ký và lời kể để truy tìm gốc gác một chi tộc họ Trương từng được đổi thành tộc Lê hơn 100 năm trước.
Cuối cùng, nhóm nghiên cứu đã tìm được mộ tổ Trương Thâu và gốc gác tộc này lưu lạc vào Trà Vinh, Nam Bộ từ Quảng Bình nhờ những ghi chép cách đây gần nửa thế kỷ của cụ Lê (Trương) Thái Bình, lúc ấy đã 80 tuổi. Sau đó, nhóm đã hình thành được bộ gia phả cho tộc Trương (Lê), có mộ tổ tại ấp La Bang, xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Đây là một trường hợp khá hy hữu trong lịch sử nghiên cứu các dòng họ ở phía Nam.
Di bút của cụ Lê (Trương) Thái Bình, đời thứ 4 kể từ cụ tổ Trương Thâu, có đoạn: "Theo truyền ngôn mà ông nội tôi là ông Lê Văn Đức thuật lại cho cha tôi là ông Lê Anh Dõng nói lại cho anh em chúng tôi nghe thì ông cố, bà cố nội chúng tôi không rõ biết chắc ở đâu mà chạy giặc luôn luôn, đến trú ngụ từ Tân An, lần xuống Mỹ Tho, qua Bến Tre, kế Ba Vát, Mỏ Cày, nơi nào cũng không yên; đoạn qua sông Cổ Chiên vào vàm Cái Hóp đến xứ Càng Long ở được vài tháng thì ông cố nội mang bệnh chết, chôn tại một con giồng gần chợ Càng Long bây giờ. Nghe tin giặc còn tới nữa, bà cố nội tôi bàn với ông bác Ba tôi là ông Trương Văn Phước và ông nội tôi, thứ tư, là ông Trương Văn Đức để bà Năm, bà Sáu ở lại giữ mộ; còn ông bác, ông nội tôi chở bà cố tôi, bà Bảy, bà Chín và bà Mười xuống vàm Bãi Vàng, vô Chà Va...".
Từ những di bút cuối đời đó, một gia phả đã được lập ra. Đây được xem là bộ gia phả thắm đượm một giai đoạn bi hùng của lịch sử Nam Bộ từ thời di dân lập làng cho đến thời các cụ Trương Đăng Quế và Trương Định dấy binh chống ngoại xâm. Các hậu duệ của cụ tổ Trương Thâu đã phải đổi thành tộc Lê và tản mác đi nhiều nơi để tránh sự trả thù của quân Pháp vì quan hệ dòng tộc. Bộ gia phả ấy vì vậy cũng thấm cả máu và mồ hôi của nhiều thế hệ.
Bình luận (0)