Sáng 13-3, tại TP Cần Thơ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị lần thứ ba về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH). Tham dự hội nghị còn có Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên; Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng.
Nông nghiệp có nhiều bước tiến
Nghị quyết số 120/NQ-CP (NQ 120) ngày 17-11-2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH đề ra tầm nhìn tới năm 2100, mục tiêu tới năm 2050, định hướng phát triển thịnh vượng, an toàn, bền vững vùng đất anh hùng, giàu tiềm năng và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh của đất nước. Hội nghị lần này một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán và sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến sự phát triển bền vững ĐBSCL.
Phát biểu mở đầu hội nghị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình khẳng định: "Việc ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng BĐKH (NQ 120) đã đánh dấu bước đột phá lớn trong tư duy, định hình chiến lược phát triển vì tương lai thịnh vượng, bền vững của ĐBSCL theo hướng tổng thể, tích hợp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng với tầm nhìn dài hạn. Đồng thời, tăng cường kết nối phát triển giữa các địa phương trong vùng, bảo đảm tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm thông qua cơ chế điều phối thống nhất".
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, đánh giá qua 3 năm triển khai NQ 120, ĐBSCL đã chuyển mình mạnh mẽ; tăng trưởng GDP của vùng luôn ở mức cao trước khi xảy ra đại dịch Covid-19 (trong hai năm liên tục 2018 và 2019 đều đạt mức tăng trưởng ấn tượng khoảng 7,3%).
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, NQ 120 đã được thấm nhuần trong nhận thức và hành động của các ngành, địa phương; làm thay đổi nhận thức từ bị động sang chủ động thích ứng với BĐKH thông qua nâng cao năng lực quan trắc, giám sát khí hậu, dự báo sớm thời tiết, cảnh báo kịp thời thiên tai để chuyển đổi sản xuất, kinh doanh phù hợp dựa trên các lợi thế tự nhiên. Nhờ dự báo và cảnh báo sớm, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai các giải pháp hiệu quả, hạn chế tối đa tác động xấu, ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất tại ĐBSCL.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà dẫn chứng, trong đợt hạn, mặn 2019-2020, mặc dù mức độ khắc nghiệt và diện rộng hơn đợt hạn, mặn lịch sử 2015-2016 nhưng nhờ sự chủ động trong dự báo và kịp thời hành động trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đã góp phần giảm 90% diện tích sản xuất lúa bị ảnh hưởng so với năm 2015-2016.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng nhìn nhận NQ 120 tạo ra xung lực để nông nghiệp vùng ĐBSCL phát triển mạnh mẽ. Ông dẫn chứng: "Nếu trước kia, chúng ta xác định các sản phẩm trụ cột của ĐBSCL gồm lúa gạo - thủy sản - trái cây, thì sau khi NQ 120 được triển khai, cơ cấu nông nghiệp đã chuyển dịch tích cực. Trước NQ 120, trong 3,2 triệu ha đất nông nghiệp của vùng, có 1,82 triệu ha đất lúa, 860.000 ha nuôi thủy sản, 385.000 ha cây ăn trái. Sau khi NQ 120 triển khai thì diện tích trồng cây ăn trái tăng lên 450.000 ha, thủy sản trên 900.000 ha, trong khi diện tích lúa giảm còn 1,7 triệu ha, diện tích lúa 3 vụ cũng giảm".
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, vào năm 2016, xuất khẩu nông sản của toàn vùng đạt 7 tỉ USD nhưng đến năm 2020 đã là 8,8 tỉ USD. Điều này cho thấy việc chuyển hướng thuận thiên không những đúng hướng mà còn hiệu quả. Còn theo GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường ĐH Nam Cần Thơ, sau 3 năm triển khai, NQ 120 đã tạo chuyển biến tích cực. Điển hình là vùng ven biển, diện tích lúa - tôm tăng lên rất nhiều và mô hình này có lợi tức gấp 4-5 lần trồng lúa. "Tôi gặp nhiều bà con nông dân, họ bảo Chính phủ mình tài tình quá, gỡ được cái nghèo của nông dân vì một thời gian dài trồng lúa nhiều nhưng lợi tức không bao nhiêu" - GS-TS Võ Tòng Xuân chia sẻ.
Ưu tiên nguồn lực cho ĐBSCL
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) Nguyễn Chí Dũng thông tin, để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL, trên cơ sở kiến nghị của Bộ KH-ĐT, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành NQ số 973 ngày 8-7-2020. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14-9-2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của vùng ưu tiên cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Theo đó, trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước dự kiến hỗ trợ cho các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý khoảng 266.000 tỉ đồng (tăng 20% so với giai đoạn 2016-2020), trong đó vốn ngân sách đối ứng địa phương là khoảng 162.000 tỉ đồng. Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số bộ như: Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế... để triển khai các công trình dự án trong vùng khoảng 121.600 tỉ đồng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của vùng ĐBSCL khoảng 388.000 tỉ đồng.
Với số vốn được bố trí như trên, sẽ hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng như: thông tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau; các tuyến đường giao thông có tính chất liên kết vùng và một số tuyến quốc lộ trong vùng.
Riêng đối với nguồn vốn ODA, để bổ sung tăng thêm 2 tỉ USD trong giai đoạn 2021-2025 cho vùng ĐBSCL theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH-ĐT đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) nghiên cứu, xây dựng báo cáo đề xuất khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững vùng ĐBSCL, quy mô dự kiến 1,05 tỉ USD. Với quy mô vốn như vậy, sẽ hoàn thành được các công trình: đường ven biển đối với các tỉnh có biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang; hồ trữ nước ngọt gắn với hạ tầng thủy lợi phục vụ liên kết sản xuất vùng tứ giác Long Xuyên, một số công trình giao thông liên tỉnh có tính lan tỏa.
Theo Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể, tổng nhu cầu vốn ngân sách để đầu tư cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 khoảng 198.823 tỉ đồng. Tuy nhiên, nhu cầu này vượt quá khả năng cân đối trong điều kiện nguồn lực khó khăn như hiện nay, nên bộ đã đề nghị Chính phủ cân đối tối thiểu khoảng 57.346 tỉ đồng để đầu tư cho các dự án động lực vùng gồm: Tuyến cao tốc Cần Thơ - Cà Mau, Mỹ An - Cao Lãnh, An Hữu - Cao Lãnh, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng và các cầu Rạch Miễu 2, Đại Ngãi; nâng cấp một số tuyến quốc lộ quan trọng… "Đối với kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025 của ngành Giao thông Vận tải tại vùng ĐBSCL, chúng tôi đã thống nhất với Bộ KH-ĐT là sẽ đầu tư khoảng 57.000 tỉ đồng, gần gấp đôi so với nhiệm kỳ vừa qua (29.000 tỉ đồng). Hy vọng đến năm 2025, giao thông của vùng ĐBSCL sẽ có điều kiện phát triển tốt hơn để giúp khu vực chuyển đổi và phát triển bền vững" - Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể nói.
"8G" cho ĐBSCL
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc đến vai trò trung tâm sản xuất nông nghiệp của ĐBSCL đối với cả nước, đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây cả nước. Dù kết quả thực hiện NQ 120 trong 3 năm qua bước đầu tích cực, nhưng các bộ, ngành, địa phương phải xác định rất nhiều nhiệm vụ phải làm thời gian tới. Thủ tướng đề nghị tổ chức một cuộc Đối thoại 2045 ở khu vực ĐBSCL để tìm giải pháp đưa ĐBSCL phát triển thịnh vượng cùng đất nước.
Đánh giá cao các đại biểu đã nêu nhiều ý kiến đầy trách nhiệm, tâm huyết, sâu sắc vì sự phát triển của vùng đất "Chín Rồng", Thủ tướng đưa ra quan điểm chiến lược tiếp cận mới đối với sự phát triển vùng ĐBSCL với 8 nội dung có các từ khóa đều bắt đầu bằng chữ "G".
Thứ nhất là "Giao": Tức dành nguồn lực tập trung ưu tiên phát triển hệ thống giao thông thủy lợi, cơ sở hạ tầng gắn với tầm nhìn chung của toàn vùng ĐBSCL. Trong đó, ưu tiên đầu tư hệ thống đường cao tốc, tạo sự kết nối thuận tiện, chi phí thấp, thúc đẩy giao thương, mở mang kinh tế cho người dân, làm cơ sở ứng phó hiệu quả với thách thức của BĐKH.
Thứ hai là "Giáo": Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Đây vừa là chìa khóa vàng của phát triển bền vững, vừa là đáp án cho bài toán phát triển ngắn hạn lẫn dài hạn. Thủ tướng nhấn mạnh: "Vấn đề giáo dục, đào tạo chưa được nổi bật và sắc nét trong NQ 120, đề nghị bổ sung một số nội dung trọng tâm về vấn đề này vào NQ 120".
Thứ ba là "Giang" (sông): Kinh tế và sinh kế của người dân ĐBSCL gắn liền với sông nước. Vì thế, cần tận dụng được lợi thế, phát huy vai trò của các con sông để phát triển kinh tế nông nghiệp, lúa gạo, trái cây, thủy sản, giao thông và đặc biệt là hệ thống logistics đường sông thì mới thành công.
Thứ tư là "Gắn": Gắn kết giữa trung ương với địa phương, nhà nước với thị trường, người dân với doanh nghiệp, giữa trong nước với tổ chức, nhà đầu tư quốc tế. Đặc biệt là gắn liên kết vùng ĐBSCL để cùng phát triển bền vững.
Thứ năm là "Giàu": Tức là tích cực thu hút được những người giàu, người khá giả, doanh nghiệp có tiềm lực đến đầu tư phát triển kinh tế địa phương.
Thứ sáu là "Giỏi": Tích cực thu hút những tài năng đóng góp chất xám, trí tuệ cho sự phát triển ĐBSCL. Cần có chính sách chung thu hút giới tài năng trở về hoặc đến đóng góp vì sự phát triển của vùng đất Chín Rồng.
Thứ bảy là "Già": ĐBSCL có mức độ dân số già hóa cao hơn bình quân cả nước. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về mặt kinh tế - xã hội lẫn môi trường. Do đó, ĐBSCL cần có chính sách chủ động cho vấn đề dân số già hóa và hình thành mạng lưới an sinh xã hội tốt hơn để nâng đỡ phúc lợi cho người già và những người yếu thế.
Thứ tám là "Giới": Tức là thúc đẩy bình đẳng giới, tiếp cận cơ hội việc làm và phát huy vai trò, vị trí của người phụ nữ.
"Chúng ta thúc đẩy triết lý "thuận thiên", nương theo quy luật tự nhiên để phát triển, không can thiệp thô bạo, nhưng nội hàm của nó không phải là cam chịu, là chấp nhận số phận hay sự sắp đặt của tạo hóa. BĐKH không phải là do tự nhiên tạo ra mà chủ yếu là hệ quả của các hoạt động của con người. Do đó, chúng ta phải nhận thức đúng để có các giải pháp và hành động phù hợp" - Thủ tướng đúc kết.
Phát triển mạnh mẽ các đô thị trong vùng
Trên cơ sở các quan điểm đề ra, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu một số nhiệm vụ mà các bộ, ngành và địa phương vùng ĐBSCL cần thực hiện. Thủ tướng chỉ đạo tạo lập môi trường kinh doanh tốt nhất cho DN, thúc đẩy sự linh hoạt của chính sách và các yếu tố kinh tế.
Bên cạnh đó là thúc đẩy sự phát triển đồng bộ và hoàn chỉnh các loại thị trường chủ chốt; thúc đẩy chuyển đổi đất đai để thích nghi với nhu cầu và mục đích sử dụng đất trước sự biến đổi nhanh chóng và khó lường của thiên nhiên. Đồng thời, xây dựng hệ sinh thái cho các ngành sản xuất, giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, các liên kết chuỗi, mô hình phát triển cụm ngành tại ĐBSCL; tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ, xác định các công nghệ ưu tiên đầu tư tại khu vực này; có cơ chế chính sách thúc đẩy các sáng kiến phát triển bền vững; phát triển thị trường vốn, đẩy nhanh hình thành các quỹ đầu tư, các cơ chế huy động vốn, khuyến khích cho vay các lĩnh vực giúp chuyển đổi cơ cấu nhanh chóng, tăng cường năng lực thị trường tài chính.
Thủ tướng cũng chỉ đạo cần đưa ngân sách chi cho ứng phó với BĐKH thành một hạng mục chi chính của ngân sách địa phương trong tổng thu ngân sách hằng năm. Các địa phương trong vùng cần tăng cường liên kết mạnh mẽ với TP HCM theo tình thần bền vững, hữu cơ, cùng phát triển; phát huy vai trò hội đồng điều phối vùng. Đặc biệt là cần phát triển mạnh mẽ các đô thị trong vùng, quy hoạch lại dân cư; song song với đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tranh thủ các nguồn viện trợ quốc tế để dành mọi nguồn lực cho phát triển vùng ĐBSCL.
Những kết quả nổi bật
Sau hơn 3 năm thực hiện NQ 120, kinh tế toàn vùng ĐBSCL liên tục đạt mức tăng trưởng cao: năm 2018 đạt 7,8%, năm 2019 đạt 7,22%. Năm 2020 trong bối cảnh xảy ra đại dịch Covid-19, các địa phương vùng ĐBSCL đã nỗ lực góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia trên thế giới có mức tăng trưởng GDP dương trong năm 2020.
Để có kết quả này, trong giai đoạn 2016-2020, tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước dành gần 200.000 tỉ đồng (tương đương gần 9 tỉ USD) chiếm khoảng 16% tổng đầu tư toàn quốc từ ngân sách nhà nước, cao hơn nhiều so với mức 12% của giai đoạn 2011-2015. Trong khi đó, nguồn ODA là 22.000 tỉ đồng (gần 1 tỉ USD).
Ông LÊ QUANG MẠNH, Bí thư Thành ủy Cần Thơ:
Kết nối vận tải hàng hóa với thị trường quốc tế
Hiện nay, việc tìm đường ra các thị trường lớn cho nông sản của khu vực ĐBSCL chưa được thực hiện nhiều, chưa có tuyến vận tải hàng hóa kết nối trực tiếp với thị trường quốc tế. Về đường hàng không, sân bay Cần Thơ vẫn chưa được đầu tư nhà ga hàng hóa và khu logistics hàng không. Cảng quốc tế Cái Cui tại Cần Thơ có công suất tiếp nhận tàu trọng tải 20.000 tấn nhưng không có hàng hóa thông quan…
TP Cần Thơ kiến nghị trung ương sớm có giải pháp căn cơ để giải quyết vấn đề này. Chính phủ cần sớm xem xét, phê duyệt quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn 2050. Ngoài ra, Chỉ thị 23 của Thủ tướng đã chỉ đạo nghiên cứu bổ sung 2 tỉ USD tăng thêm cho giai đoạn 2021-2025 để hoàn thành các chương trình, dự án đầu tư của vùng ĐBSCL với cơ chế tài chính cấp phát 100% vốn vay nước ngoài. Vì vậy, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận thực hiện theo phương thức cấp phát đối với khoản vay này.
Ông LÊ QUÂN, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau:
Phát triển doanh nghiệp để hạn chế di cư
Tỉnh Cà Mau có khoảng 1,2 triệu người, trong đó lực lượng lao động gần 700.000 người. Tuy nhiên, hiện có khoảng 200.000 người (chiếm gần 1/3 lao động của tỉnh) di cư lao động, chủ yếu ở TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương. Nguyên nhân là do Cà Mau chưa có nhiều việc làm phù hợp và có thu nhập tốt. Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp dẫn đến thu hút đầu tư gặp nhiều khó khăn, số việc làm mới có thu nhập cao không nhiều. Do hiện tượng di cư, nhiều vùng nông thôn của Cà Mau đối diện với thực tế không còn nhiều lao động trẻ tại chỗ.
Để giải quyết vấn đề trên, phải triển khai đồng bộ, gắn phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo thuận lợi thu hút đầu tư, giúp DN phát triển nhằm tạo việc làm tại chỗ, hạn chế di cư, ổn định việc làm và sinh kế cho người dân.
Ông PHẠM THIỆN NGHĨA, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp:
Hạn chế thu hút dự án đầu tư có tác hại môi trường
Đúc kết từ NQ 120 cùng với đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh, chúng tôi đã có định hướng sâu sát, đặc biệt gắn với BĐKH. Thấy được tác động của BĐKH để phát triển theo quy luật thuận thiên, Đồng Tháp đã giảm lúa vụ 3 để thích ứng với tình trạng nước từ thượng nguồn về giảm.
Toàn tỉnh đã tạm ngưng khai thác nước ngầm từ cuối năm 2020 để chuyển qua sử dụng nước mặt. Để chia sẻ với các tỉnh hạ nguồn, chúng tôi điều chỉnh lại các quy hoạch ven sông Tiền, sông Hậu và hạn chế thu hút dự án đầu tư có tác hại liên quan đến ô nhiễm môi trường, nhằm bảo đảm môi trường chung cho vùng ĐBSCL.
Bà CAROLYN TURK, Giám đốc quốc gia của WB tại Việt Nam:
Cam kết hỗ trợ mạnh mẽ cho ĐBSCL
NQ 120 thực sự mang tính đột phá, đánh dấu sự thay đổi từ cách tiếp cận mang tính phòng vệ thụ động đối với BĐKH chuyển hướng sang mô hình chủ động thích ứng với thiên nhiên. Với tư cách là đối tác phát triển của Việt Nam, chúng tôi cam kết hỗ trợ mạnh mẽ đối với ĐBSCL và việc thực hiện NQ 120.
Trong giai đoạn 2015-2020, chúng tôi đã huy động khoảng 2,2 tỉ USD cho các hoạt động trong khu vực, hầu hết trong số đó đều phù hợp với NQ 120. Trong tương lai, chúng tôi sẵn sàng huy động thêm kiến thức và nguồn tài chính để thực hiện các tầm nhìn và mục tiêu của NQ 120. Những nguồn lực này sẽ hỗ trợ các cơ quan trung ương, địa phương và các bên liên quan khác để giảm thiểu rủi ro và nắm bắt cơ hội do BĐKH, thị trường mới trong và ngoài nước, tiến bộ về công nghệ.
D.Chinh ghi
Bình luận (0)