Cây xà cừ này rất nổi tiếng vì nó cao lớn nhất công viên bờ Bắc sông Hương, nhiều thế hệ đã lưu giữ hình ảnh vạm vỡ của nó và chắc hẳn, trong các mắt lá của nó cũng đã thu giữ hình ảnh nhiều thế hệ học sinh qua đây. Cây đổ xuống như một mảng ký ức Huế đổ xuống, như một mảnh vỡ của không gian Huế xanh bị đứt dây chằng đổ xuống. Những cội rễ to lớn cắm sâu vào đất hàng bao nhiêu năm giờ bỗng nhiên đứt phựt, bất lực trước cuồng phong. Cùng với tiếng thét của sạt lở đất phía đại ngàn, hình ảnh gục ngã của đại thụ cảnh báo cho con người "phải biết lễ độ trước thiên nhiên", chỉ có thể tìm cách sống hài hòa thích ứng, không thể chống chọi được sự tai quái của thiên nhiên.
Ảnh: Quang Nhật
Rồi tin Huế trồng lại cây xà cừ được cộng đồng mạng chia sẻ với niềm vui dâng trào, nhiều người rớt nước mắt vì quá cảm động. Người ta cảm ơn bởi một điều gì đó quý giá đang được cứu vãn. Trồng lại cây là trồng lại ký ức, trồng lại niềm tin, trồng lại mầm xanh nhân văn cho Huế. Trước đó, sau bão Noul, cây xanh đường phố Huế trở thành đề tài nóng hổi trên mọi diễn dàn. Nó khiến cho người ta thêm lần nữa nhận ra cây xanh quan trọng thế nào đối với người dân miền Hương Ngự, như là một phần không thể thiếu của lẽ sống. Chợt nhớ năm 1985, bão số 8 khiến gần như toàn bộ cây xanh ở Huế bị gãy đổ nặng nề, chính quyền lập tức ra nghị quyết trồng cây xanh. Chỉ vài năm sau, Huế trở lại là thành phố có tỉ lệ cây xanh cao nhất cả nước, trong đó có những dải rừng cây dọc hai bên bờ sông Hương hiện vẫn còn lưu dáng xanh. Thế mới thấy người Huế yêu cây xanh biết mấy. Ở Huế có tục lệ cho cây cối để tang gia chủ, khi trong nhà có người qua đời thì cây trong vườn cũng được thắt một vòng tang trắng. Cây gần gũi như người, yêu cây như yêu người, đứng trước cổ thụ già nua, họ kính cẩn như đang ứng xử với thế hệ đi trước của mình.
KHÔNG CHỈ NGƯỜI HUẾ mới yêu quý cây xanh đến vậy. Từ thuở ban sơ, những đại ngàn xanh thẳm tuyệt đối thiêng liêng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số.
Bên bếp lửa, già làng Đam Mây kể rằng người Ê-đê xem cây rừng là mái nhà của cộng đồng: "Đất đai, sông suối, cây rừng là cái nong, cái nia, cái lưng của ông bà… Cây rừng đã có từ xưa của ông bà để lại. Bảo vệ cây rừng là bảo vệ buôn làng, bảo vệ rẫy nương, bảo vệ bến nước…".
Bên bếp lửa, người M’nông ở Đắk Nông hát: "Khu rừng sâu đâu phải của nai, khu rừng đó là của tổ tiên, khu rừng đó là của con cháu, khu rừng đó là của ông bà, khu rừng đó là của chúng ta…".
Bên bếp lửa, người Cơ-tu - "kẻ sống đầu ngọn nước" - cúi lạy về đại ngàn: Rừng là vị thần thiêng liêng của buôn làng ta. Rừng là người Mẹ thiên nhiên của chúng ta. Từ nắm rau rừng, con cá, con ốc, đến tên sông, tên suối, cây cối linh thiêng và muông thú…, đều được tổ tiên người Cơ-tu chúng ta lấy đặt tên làng, tên họ, tên nguồn cội của mình…". Mọi thứ trên rừng đều là của chung, người Cơ-tu không mua bán thứ gì từ rừng. Rừng cũng không phải là tài nguyên để khai thác, chiếm lấy bằng mọi giá mà rừng như chính là người thân yêu ruột thịt, như chính da thịt của họ. Trẻ, già, trai, gái đều có trách nhiệm và nghĩa vụ chung là gìn giữ rừng, bảo vệ Mẹ rừng linh thiêng… Rồi người Cơ-tu hát: "Con chim trên trời cao cần rừng xanh bát ngát/ Con cá dưới nước cần dòng nước trong veo/ Con người
Cơ-tu cần Mẹ rừng che chở… Mất rừng chim không còn tiếng hót/ Mất suối sông cá không còn hơi thở/ Mất Mẹ rừng người Cơ-tu sẽ tàn vong…".
Trong cơn lốc thảm sát thổi qua những cánh rừng già hàng chục năm qua, những luật tục giữ rừng cổ xưa trở nên bất lực. Với rất nhiều nguyên nhân, rừng nguyên sinh bị tàn phá dữ dội, nặng nề. Những huyền thoại đại ngàn sinh trưởng hàng ngàn năm giờ toang hoác những mảng núi đồi trốc lở. Những huyền thoại phi văn bản giờ chỉ còn lưu giữ bằng văn bản nằm im lìm trong các thư viện. Những bếp lửa người vùng cao kể sử thi vùng đất, thưa dần người Ê-đê kể Khan Đam San, thưa dần người M’nông kể Ot n’trong, thưa dần người Bana kể H’amon, thưa dần người Jrai kể Hri, thưa dần người Xơ-đăng kể Tói kia rnghia, thưa dần người Chu-ru kể Tr’o car, thưa dần người Raglai kể Akha jur car…
Rừng mất, văn hóa đại ngàn được sinh ra và nuôi dưỡng từ rừng đang mất. Rừng không phải là tài nguyên để khai thác, chiếm lấy bằng mọi giá mà rừng như chính là người thân yêu ruột thịt, như chính da thịt mình. Rất may là có những người đang quyết liệt giữ lại rừng nguyên sinh và bản nguyên văn hóa của nó. Những tiếng nói cháy lòng kiên quyết giữ rừng xanh đã vang lên giữa các kỳ họp Quốc hội. Và trong các cánh rừng, những đứa con của núi rừng cũng đang tìm mọi cách gìn giữ những kho tàng văn hóa cha ông để lại. Chị Kê Sửu, Bí thư Huyện ủy A Lưới (tỉnh Thừa Thiên - Huế), được xem là điểm son lịch sử của người Tà Ôi vì là vị tiến sĩ đầu tiên ở miền Tây Thừa Thiên - Huế. Luận án ngôn ngữ của chị trở thành cơ sở tài liệu dạy tiếng Pa-cô cho người miền xuôi, giúp người Tà Ôi mạnh dạn hơn trong việc dùng "tiếng của mình" làm việc, giao dịch... Một người khác, nghệ nhân Ta Dưr Tư từ nhỏ được cha mẹ bày vẽ cho nhiều lời ca điệu múa núi rừng nên chị đam mê rất mực văn hóa dân gian Pa-cô. Âm thầm đến các thôn bản, trên những bếp lửa nhà sàn, Ta Dưr Tư miệt mài thu âm, ghi chép về nội dung, ý nghĩa của từng lời ca, điệu múa, truyện cổ... Nhiều chương trình nghệ thuật dân gian miền núi của các đài truyền hình, các hãng phim tài liệu có sự cố vấn của Ta Dưr Tư. Hiện nay, nhiều truyện cổ Pa-cô nằm trong bản thảo của chị chưa được xuất bản… "Những đứa con của núi rừng còn yêu đại ngàn thì văn hóa đại ngàn không mất" - Kê Sửu nói dứt khoát.
* * *
Trở lại với Huế, sau bão tố cuồng phong, may mắn thay những đại thụ ở các đình làng, miếu mạo vẫn còn xanh trong ngõ xóm. Cây thị nghìn năm tuổi mùa Xuân này vẫn đang trổ mầm xanh nơi làng cổ Phước Tích. Huế hiện lưu giữ hơn 600 cây cổ thụ có giá trị, mỗi cây xanh có một hồ sơ, được đối xử như một di sản văn hóa qua bao mùa thay lá.
Cây xà cừ số 13 thời khắc cuối năm đã đâm mầm những chồi non mạnh mẽ. Sự hồi sinh đang vun tràn trên những chiếc lá xanh mơn. Từ đây, nhận ra niềm vui hy vọng lấp lánh trong mắt người nhìn thấy và trong cả tiếng chim từ trong kinh thành Huế gần đó vọng vang…
Bình luận (0)