Trong những chuyến đi như vậy, không ít lần tôi chợt thấy hình bóng mình hồi còn là đứa trẻ đứng trên cầu Bến Lức, hớn hở nhìn theo những chiếc ghe bầu, bè thủy lục tí hon của lễ cúng việc lề. Rồi đứa trẻ tự hỏi: Năm nay, dòng họ mình cúng việc lề ở nhà ai? Lúc đó chợt giật mình, đã bao lâu tôi xa không khí của những buổi cúng việc lề?
Suốt chặng đường hơn trăm cây số từ Bến Lức về đến nhà, tên những người trong dòng họ, bà con thân tộc hiện ra cùng những hình ảnh năm nào, tôi ngồi trên chiếc Honda 67, theo ông nội đi cúng việc lề. Ôi Tháp Mười, Mộc Hóa, Tân Trụ, Tân An của tuổi thơ tôi!
Cũng chặng đường từ nhà đến Long An, mấy mươi năm đường sá có đổi thay nhưng vẫn nguyên vị trí cũ. Vậy mà sao tôi lại thấy dài ơi là dài, trong khi hồi nhỏ theo nội đi, chỉ thấy vèo một chút là đã tới. Có lẽ nội đưa tôi đi với những câu chuyện kể, đứa cháu thích thú lắng nghe nên đường có dài mấy cũng trở nên ngắn lại.
Đứa nhỏ hỏi: "sao mình phải cúng việc lề vậy nội?". Ông sẽ từ tốn trả lời: "Tổ tiên nhà mình có gốc gác từ miền Trung, năm xưa theo dân binh của Chúa Nguyễn vào Nam. Tới nơi đây, rừng thiêng nước độc nên không ít người đã bỏ mạng trong cuộc khai phá đất hoang và lập nghiệp. Số còn lại cưới gả, làm ăn lưu lạc nhiều nơi. Để không lạc mất nguồn cội, người xưa đã quy ước ngầm rằng mỗi năm dành ra một ngày để tề tựu. Trước để gặp nhau cho đừng quên gốc rễ dòng họ bà con, sau để cúng kiếng, nhớ ơn ông bà đã sinh thành con cháu, khai mở đất đai và cũng cúng thí thực cho vong hồn những người không có thân nhân cúng bái".
Đứa nhỏ là chúa tò mò, nó không chịu chuyện chỉ có bấy nhiêu, khi vừa qua khỏi cầu Cái Tàu Hạ, đường còn xa lắm. Nó hỏi ông nội tiếp: "Vậy tại sao mình lại gọi là cúng việc lề vậy nội?". Ông già vẫn giọng từ tốn hiền lành nói: "Việc lề là việc đã có từ lâu, đã thành lề thói phải noi theo mà làm cho đúng. Ngoài món tam sên và cháo ám hầu như lễ cúng việc lề nào cũng phải có, thì mỗi dòng họ sẽ có cách và thức cúng khác nhau.
Đó là những món gắn liền với quá trình lịch sử của dòng họ. Ví như dòng họ của bà Năm trong xóm, cúng việc lề ở Mộc Hóa thì phải có gỏi da voi (da heo cắt hình con voi) bởi tộc này năm xưa chuyên nghề săn voi. Hay là dòng họ của chú Chín bán gạo ở chợ quê, tộc họ cúng ở Bến Lức thì phải có dĩa thịt sống và hình nộm bằng rơm, có gắn 5 tàu lá dừa hình 5 mũi tên kết lại như ngôi sao Ngũ hành trừ tà để cúng sơn lâm, bởi tộc họ này xưa kia có người bị cọp vật chết".
Đứa nhỏ chỉ ngưng hỏi khi đã đến chỗ cúng việc lề. Năm đó, Tết vẫn còn trên những bông mai vàng trước ngõ, dòng họ cúng ở nhà bác Ba bên Đức Hòa. Vừa bước vào sân nhà đã thấy bác Ba và các chú bày trên sân một tấm đệm cỏ bàng lớn. Giữa đệm, những cái tô bằng lá dừa kết lại, những cái chén bằng gáo dừa, những cái dĩa bằng lá môn, lá sen...
Những món cúng dâng lên cũng thật lạ, đó là 100 cái bánh ít, 100 cái bánh tét, loại nào cũng gói nhỏ xíu như ngón chân cái. Bên cạnh đó, trong các dĩa lá khoai môn còn đựng con rắn thui, miếng da trâu, con gà luộc tréo cánh, con cá lóc nướng rơm và cái muỗng vùa đựng cháo ám (thứ cháo nấu với cá lóc được đánh vảy bằng một cây dao chuốt từ thanh tre, cá chừa nguyên vi, đuôi và kỳ nấu lỏng bỏng cùng chút gạo).
Bác Ba nói khi xưa ông bà mình sống nương nhờ thiên nhiên là chính, vật dụng và thức ăn chỉ có mấy món như vầy mà thôi. Tôi cứ mãi hình dung tổ tiên đã về ngồi ăn tề tựu, như ngày nào ông bà ngồi trên chiếc ghe bầu, vừa ăn vừa canh chừng cọp beo rắn rết. Trong lúc tưởng tượng ấy, bác Ba ngâm hai câu mà mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ: "Cháo ám đựng muỗng vùa/ Rơm đồng thui cá lóc".
Nhưng thứ làm tôi mê mẩn nhất có lẽ là chiếc ghe bầu cúng tiễn ông bà, gọi là ghe tống tiễn. Chiếc ghe được làm từ thân cây chuối, lá dừa, có treo cờ nheo xanh đỏ rất bắt mắt, bên hông ghe ghi tên dòng họ rõ ràng. Ghe có đủ cả, từ mui, buồm, bánh lái đến thanh chèo. Bên trong ghe có hũ gạo, hũ muối, hũ nước, bó củi, hai cục đá lửa, cái cà ràng và một số món ăn như: rắn thui, tam sên, cháo ám. Ông nội nói năm xưa ông bà giong ghe bầu từ miền Trung vào Nam lập nghiệp, nên năm nào cúng ông bà xong xuôi, cũng phải chuẩn bị ghe bầu để các cụ trở về quê theo tâm thức "Nam tiến, Bắc hồi".
Sau khi nhang đã tàn, tất cả những người dự lễ kéo nhau ra sông theo chiếc ghe bầu. Đến mé nước, bác Ba đặt vào ghe một ít vàng mã và có cả mấy ngàn đồng tiền thật, vái rằng để ông bà làm lộ phí về quê, rồi cầu chúc ông bà đi mạnh giỏi, năm sau con cháu lại thỉnh về dự lễ cúng việc lề. Xong xuôi, ghe bầu được đẩy nhẹ ra sông, con nước đưa chiếc ghe trôi đi thật xa, đến khi mất hút thì cháu con mới vào nhà.
Phần lễ cúng vậy coi như đã xong, người lớn có những mâm riêng, ăn nói hỏi han nhau về việc đồng áng, làm ăn, kiểm tra coi họ mình năm nay ai còn, ai mất. Ngoài hỏi thăm nhau, các bác sẽ bàn với nhau việc năm sau sẽ luân phiên đến nhà nào cúng việc lề. Các chi họ, gia đình thay phiên nhau cúng. Nhờ vậy mà suốt nhiều năm, tôi được ông nội đưa đi cúng việc lề ở rất nhiều nơi, biết được nhiều người hơn, đều là bà con dòng họ.
Nội nói hồi xưa lúc chiến tranh ly loạn, người ta phải tản cư khắp nơi, có khi thay tên đổi họ, lạc mất bà con gốc tích. Nhưng vẫn tìm lại được nhau sau nhiều đời, bởi nhờ lễ cúng việc lề và những món cúng lễ đặc trưng mỗi họ mỗi khác. Nội dặn mai mốt đi đâu xa, thấy đâu cúng việc lề có món cúng giống dòng họ mình thì ắt có bà con, con nhớ vào cúng chung cho ông bà chứng giám!
Cúng việc lề đầu năm dẫu thời gian qua thăng trầm biến đổi, vẫn luôn là dịp để mỗi người được bồi đắp thêm dưỡng chất, nuôi những chiếc rễ bà con thân thuộc dài vô tận và không bao giờ đứt gãy hay lìa xa. Vậy mà mỗi dịp ngang qua Long An, mỗi mùa chạp sắp qua, Tết sắp đến, lòng tôi đều xôn xao như vừa được trở về tuổi thơ, nguồn cội của mình!
Bình luận (0)