Để hỗ trợ cũng như giữ chân người lao động (NLĐ), một công ty ở TP Hà Nội đã ban hành quy chế doanh nghiệp (DN) sẽ chi toàn bộ chi phí đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bao gồm trách nhiệm đóng của NLĐ lẫn người sử dụng lao động (NSDLĐ). Những tưởng đây là nội dung vượt trội, có lợi hơn cho NLĐ so với quy định và được luật pháp khuyến khích thực hiện. Song, thực tế vì quy định này giữa công ty và NLĐ đã xảy ra tranh chấp, thậm chí kiện ra tòa.
Lợi bất cập hại
Người khởi kiện DN là bà N.T.T.P, một nhân viên từng làm việc tại công ty từ tháng 12-1996 và đến tháng 2-2024 thì nghỉ việc.
Bà P. cho hay tại bảng kê chi tiết kèm theo quyết định chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) mà công ty ban hành thể hiện bà được hưởng số tiền trợ cấp thôi việc (TCTV) là 75 triệu đồng (thời gian tính từ ngày 1-12-1996 đến 3-2-2024) nhưng phải nộp lại cho công ty phần chi phí đã đóng hộ BHXH, BHYТ, BHTN (phần NLĐ phải đóng) từ tháng 9-2009 đến tháng 2-2022 hơn 105 triệu đồng.
Sau khi cấn trừ thu và chi, số tiền bà P. phải nộp lại cho công ty là hơn 30,4 triệu đồng. Theo bà P., giữa bà và công ty không có bất cứ thỏa thuận nào về việc DN đóng hộ và thu lại khoản tiền bảo hiểm khi NLĐ nghỉ việc; khoản tiền đóng BHXH là lấy từ nguồn thu nhập bổ sung, được trích từ quỹ lương, không phải do DN tự bỏ tiền ra đóng hộ cho NLĐ.
Do vậy, việc công ty khấu trừ chi phí đóng BHXH, không chi trả TCTV cho bà là vi phạm pháp luật.

Người lao động làm thủ tục tại BHXH TP HCM
Tại tòa, đại diện công ty trình bày theo quy chế đã được lãnh đạo thông qua, công ty sẽ nộp 100% tiền đóng các loại bảo hiểm theo quy định của pháp luật cho NLĐ. Trường hợp NLĐ thôi việc thì phải hoàn lại số tiền đóng bảo hiểm mà công ty đã nộp thay; nếu NLĐ làm việc đến khi nghỉ hưu thì không phải nộp lại số tiền này. Bà P. thuộc trường hợp chấm dứt HĐLĐ nên phải trả lại khoản tiền DN đã đóng bảo hiểm hộ.
Tuy nhiên, theo HĐXX, hằng tháng, NSDLĐ có trách nhiệm đóng 3% trên quỹ tiền lương đóng BHXH của NLĐ vào quỹ ốm đau và thai sản; 3% vào quỹ BHYT; 1% vào quỹ BHTN; 0,5% vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 14% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Còn NLĐ đóng 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất; 1% vào quỹ BHTN; 1,5% vào quỹ BHYT.
Như vậy, mỗi tháng công ty sẽ trích 10,5% tiền lương của bà P. để nộp cho cơ quan BHXH. Số tiền này bà P. là người nộp, công ty chỉ là người nộp thay.
Mặt khác, tại mục BHXH và BHYT trong HĐLĐ thể hiện "hằng năm NSDLĐ trích 6% từ tiền lương tháng của NLĐ và số tiền trong giá thành tương ứng bằng 17% tiền lương tháng của NLĐ để đóng 20% cho cơ quan BHXH và 3% cho cơ quan BHYT".
Vậy nên, việc công ty cho rằng đã đóng thay số tiền BHXH, BHYT, BHTN cho bà P., đồng thời yêu cầu bà phải nộp lại số tiền hơn 105 triệu đồng khi chấm dứt HĐLĐ là trái quy định pháp luật. Do đó, tòa buộc công ty phải thanh toán 75 triệu đồng TCTV cho bà P.
Ngăn chặn hành vi vi phạm
Ngoài không tuân thủ quy định về mức đóng, tỉ lệ đóng các khoản bảo hiểm, hiện nay còn phổ biến tình trạng DN và NLĐ thỏa thuận không đóng BHXH, BHYT, BHTN. Điển hình là trường hợp của ông N.T.M (62 tuổi) và một công ty dịch vụ tại quận 5, TP HCM.
Theo đó, lấy lý do ông M. đã quá tuổi lao động, khi ký HĐLĐ thời hạn 1 năm công ty đã thỏa thuận sẽ không đóng BHXH, BHYT, BHTN. Thay vào đó, công ty sẽ trả tiền tương ứng khoản đóng các loại bảo hiểm vào lương. Nhưng sau khi nghỉ việc, ông M. cho rằng công ty chưa trả khoản tiền đóng bảo hiểm vào lương nên khiếu nại.
Cơ quan chức năng xác định ông M. vẫn thuộc đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN (chưa hưởng lương hưu) nên thỏa thuận giữa hai bên về không đóng các khoản bảo hiểm là trái luật. Do vậy, cơ quan chức năng yêu cầu công ty phải có trách nhiệm truy đóng các khoản bảo hiểm cho ông M.
Theo BHXH Việt Nam, tình trạng trốn đóng, đóng không đúng, không đầy đủ BHXH, BHYT, BHTN hiện diễn ra khá phổ biến, nhất là trong khối DN tư nhân, DN nhỏ. Tính đến ngày 15-5-2025, hệ thống BHXH Việt Nam đã thanh tra, kiểm tra tại 3.215 đơn vị, phát hiện 1.691 lao động chưa được đóng hoặc đóng thiếu BHXH với tổng số tiền 13,92 tỉ đồng; 3.383 lao động đóng thiếu với số tiền 5,5 tỉ đồng.
Nhằm khắc phục tình trạng trên, đồng thời giúp cơ quan chức năng có cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi phạm và áp dụng chế tài xử lý phù hợp. Theo đó, chậm đóng gồm các hành vi: NSDLĐ chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền BHXH, BHYT kể từ sau ngày đóng BHYT chậm nhất; không lập danh sách hoặc lập không đầy đủ NLĐ thuộc diện tham gia BHXH, BHYT trong thời gian 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định.
Trốn đóng là hành vi: NSDLĐ không lập danh sách hoặc lập danh sách không đầy đủ số người phải tham gia BHXH, BHYT sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định; không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký BHXH, BHYT sau 60 ngày kể từ ngày đóng BHXH, BHYT chậm nhất và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc.
Bên cạnh đó, chế tài xử phạt đối với các hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cũng được điều chỉnh theo hướng tăng nặng. Cụ thể, bắt buộc phải nộp đủ số tiền chậm đóng, trốn đóng; nộp thêm số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền BHXH, BHYT chậm đóng, trốn đóng và số ngày chậm đóng, trốn đóng vào quỹ BHXH, BHYT; bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; không được xét tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Riêng với hành vi trốn đóng, NSDLĐ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tránh rủi ro
Theo quy định của Luật BHXH 2024 và Luật BHYT 2024, đối với số tiền BHXH, BHYT, BHTN mà NSDLĐ có trách nhiệm đóng theo các quy định trước đó nhưng đến hết ngày 30-6-2025 không đóng hoặc đóng không đầy đủ thì bị xử lý theo quy định về chậm đóng, trốn đóng của các luật này. "Thời điểm này các đơn vị, DN cần ưu tiên xử lý dứt điểm các khoản nợ BHXH, BHYT, BHTN chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ để tránh đối mặt với rủi ro pháp lý lớn hơn và chi phí xử lý vi phạm tăng cao" - BHXH khuyến cáo.
Bình luận (0)