Thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi) trước Quốc hội (QH) vào sáng 25-5, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho hay qua 7 năm triển khai thực hiện Luật Quản lý nợ công, cơ cấu nợ đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng vay nợ trong nước, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia; chủ động trả nợ đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ trả nợ theo cam kết…
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi)
Tuy nhiên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng thừa nhận công tác quản lý nợ công cũng đã bộc lộ một số bất cập. Trong đó, đáng lưu ý là nợ công tăng nhanh. Chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ (trong đó vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đến cuối năm 2015 so với cuối năm 2001 đã tăng 6,5 lần. Các khoản nợ tập trung vào 3 nhà tài trợ chính: Ngân hàng Thế giới (WB) tăng 11,5 lần (23.900 tỉ đồng tăng lên 274.200 tỉ đồng); Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tăng 20,3 lần (7.500 tỉ đồng lên 151.100 tỉ đồng); Nhật Bản tăng 6,8 lần (35.900 tỉ đồng lên 243.900 tỉ đồng).
Ngoài ra, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ cũng là một trong những tồn tại. Việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập; phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao. Đã phát sinh những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay Chính phủ bảo lãnh dẫn đến Chính phủ phải trả nợ thay.
Tờ trình của Bộ trưởng Dũng cũng cho biết còn các ý kiến khác nhau về phạm vi nợ công. Theo đó, cần thống nhất việc có tính nợ phát sinh từ điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vào nợ công hay không?
Với dự thảo luật sửa đổi lần này, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết để khắc phục hạn chế trong quản lý rủi ro đối với nợ công, dự luật đã có các điều khoản cụ thể về quản lý rủi ro tín dụng cho vay lại, về quản lý rủi ro bảo lãnh Chính phủ, hướng dẫn quản lý và xử lý rủi ro đối với nợ công.
Dự luật cũng quy định điều kiện được vay lại gồm: tình hình tài chính lành mạnh; nợ quá hạn không quá 5%; đáp ứng các tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định; tổng mức dư nợ vay lại chịu rủi ro tín dụng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu thực có của từng tổ chức tài chính - tín dụng tại thời điểm xem xét cho vay lại….
Đánh giá Dự thảo luật đã thể hiện tương đối bao quát các vấn đề liên quan đến quản lý nợ công, song, báo cáo thẩm tra do Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải trình bày đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định nhằm phân định rõ hơn việc phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài ra, báo cáo thẩm tra cũng nêu đa số ý kiến thống nhất nội dung không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của DNNN, của đơn vị sự nghiệp công lập.
"Việc DNNN và đơn vị sự nghiệp công lập tự vay, tự trả thuộc quyền tự chủ của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp. Trong trường hợp DNNN không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác" – ông Hải nói và cho rằng nếu quy định nợ của DNNN, đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi nợ công sẽ dẫn đến gia tăng nghĩa vụ trả nợ công rất lớn, ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Mặt khác, báo cáo thẩm tra cũng cho rằng việc không trả được nợ nước ngoài của DNNN có thể ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm của quốc gia và trên thực tế đã có trường hợp Nhà nước phải trả nợ thay. Do đó, đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định nhằm tăng cường quản lý, giảm thiểu rủi ro đối với khoản nợ này.
Báo cáo thẩm tra cũng ghi nhận một luồng ý kiến khác đề nghị bổ sung vào phạm vi nợ công các khoản nợ tự vay, tự trả của DNNN vì cho rằng đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm đối với các khoản nợ trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
Bình luận (0)