Nguyên nhân là do thiếu nhãn nhận diện, thiếu thông tin công bố và tâm lý dè dặt của một bộ phận người tiêu dùng.
Theo khảo sát, sản phẩm nhựa tái chế hiện được tiêu thụ khá phổ biến. Song, người tiêu dùng không dễ phân biệt đâu là sản phẩm thân thiện với môi trường, có nguồn gốc rõ ràng; đâu là sản phẩm từ nhựa nguyên sinh.
Khó nhận diện
Gia đình chị Phan Mai Trang (phường Cầu Giấy, TP Hà Nội) thường sử dụng nhiều sản phẩm nhựa trong sinh hoạt hằng ngày nhưng ít khi quan tâm đến nguồn gốc hay thành phần tạo nên sản phẩm. "Điều tôi quan tâm nhất vẫn là giá cả và sự tiện dụng" - chị thừa nhận.
Cũng giống chị Trang, đa số người tiêu dùng vẫn lựa chọn sản phẩm nhựa dựa trên giá cả, thói quen hoặc độ uy tín của nhãn hiệu, mà chưa quan tâm đến vấn đề môi trường.
Theo ghi nhận trong quá trình khảo sát thực địa của các chuyên gia thuộc Dự án "Lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh" do Cục Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, tại nhiều địa phương như Nghệ An, Hưng Yên và TP HCM, hoạt động tái chế nhựa diễn ra khá rộng rãi. Nhiều cơ sở thu gom, tái chế đã sản xuất các mặt hàng từ nhựa phế liệu như chai lọ, pallet, tấm ốp, chậu cây... hay các vật dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Những sản phẩm này ngày càng xuất hiện nhiều tại các chợ dân sinh.
Tuy vậy, nhóm khảo sát cho biết sản phẩm làm từ nhựa tái chế và sản phẩm từ nhựa nguyên sinh hiện vẫn được bày bán lẫn lộn, gần như không có dấu hiệu nhận diện rõ ràng. Một số tiểu thương thừa nhận rất khó phân biệt nếu nhà sản xuất không công bố nguồn gốc nguyên liệu.

Nhựa được bán đồng giá 39.000 đồng/sản phẩm, ít ghi rõ nguồn gốc nguyên liệu
Tại Hưng Yên, không ít người mua bày tỏ lo ngại về mức độ an toàn của sản phẩm tái chế khi trên bao bì thiếu thông tin cần thiết. Trong khi đó, tại TP HCM, mức độ chấp nhận sản phẩm tái chế cao hơn, nhất là ở những nơi người bán có thể giải thích cụ thể về quy trình sản xuất hoặc nguồn gốc nguyên liệu sử dụng.
Theo nhóm nghiên cứu của dự án, thách thức cốt lõi hiện nay không chỉ ở công nghệ hay năng lực sản xuất, mà chính là sự thiếu vắng các tiêu chuẩn nhận diện và cơ chế công bố thông tin bắt buộc. Khi không có nhãn mác hoặc hướng dẫn rõ ràng, doanh nghiệp (DN) gặp khó trong việc chứng minh chất lượng, còn người tiêu dùng không có cơ sở để đánh giá và lựa chọn.
Bên cạnh đó, tình trạng "cào bằng" giá giữa sản phẩm nhựa tái chế và nhựa nguyên sinh cũng khiến các DN làm ăn nghiêm túc theo hướng xanh và sạch gặp bất lợi trong cạnh tranh. Không ít đơn vị trộn lẫn nhựa tái chế với nhựa nguyên sinh mà không công bố rõ ràng, làm gia tăng nguy cơ mất niềm tin của người tiêu dùng đối với thị trường.
Nhận thấy tiềm năng của thị trường nhựa tái chế, ông Lê Anh, Giám đốc Phát triển bền vững của Công ty CP Nhựa tái chế Duy Tân, cho biết DN đã vận hành nhà máy tái chế nhựa đầu tiên vào năm 2021 với công suất 20.000 tấn/năm. Tuy nhiên, thời điểm đó, lượng tiêu thụ tại thị trường trong nước chỉ đạt khoảng 2.000 tấn, tương đương 10%, phần còn lại chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu. Những năm gần đây, tỉ lệ tiêu thụ sản phẩm nhựa tái chế tại Việt Nam tăng mạnh, nên công ty quyết định nâng công suất lên 40.000 tấn/năm, sản lượng tiêu thụ nội địa đạt khoảng 16.000 tấn, gấp 8 lần so với thời điểm ban đầu.
"Tuy nhiên, rào cản lớn hiện nay là giá thành sản phẩm nhựa tái chế cao hơn nhựa nguyên sinh khoảng 1,3 lần, bên cạnh những khó khăn trong thu gom, phân loại nguyên liệu nhựa sau sử dụng" - ông Lê Anh nêu rõ.
Cần gắn nhãn tái chế
Bà Nguyễn Thị Hoàng My, đại diện Công ty VietCycle, nhấn mạnh sự cần thiết của việc gắn nhãn nhận diện cho sản phẩm nhựa tái chế. Một số ít sản phẩm đã được gắn nhãn sinh thái nhưng tiêu chuẩn để đạt nhãn này khá cao. Chưa kể, khái niệm sinh thái còn khá trừu tượng nên người tiêu dùng chưa thật sự hiểu rõ, dẫn đến vẫn khó phân biệt giữa nhựa tái chế và nhựa nguyên sinh.
Theo bà My, để sản xuất sản phẩm nhựa tái chế đạt chất lượng, nguyên liệu đầu vào cần được thu gom, phân loại bài bản, bảo đảm nguồn gốc và chất lượng ngay từ đầu. Đây là những yếu tố cần được kiểm soát chặt chẽ để xây dựng chuỗi kinh tế tuần hoàn và thúc đẩy ngành nhựa tái chế phát triển bền vững.
Ông Nguyễn Lê Thăng Long, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nhựa An Phát Xanh, dẫn kinh nghiệm tại Pháp cho thấy năm 2010 - khi bắt đầu chuyển đổi, người tiêu dùng nước này cũng gặp không ít khó khăn để thay đổi thói quen. Phải mất tới 8 năm sau, thị trường mới dần định hình. Do đó, theo ông, cần có lộ trình gắn với các chính sách tiêu chuẩn rõ ràng để thay đổi hành vi tiêu dùng.
Trong khi đó, PGS-TS Nguyễn Thế Chinh, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, cho rằng cần có những chính sách đặc thù, mang tính thời điểm để thúc đẩy phát triển sản phẩm xanh, như ưu đãi về thuế và hỗ trợ DN sản xuất. Việc hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng các quy định về môi trường và tiêu chuẩn sản phẩm xanh cũng là yêu cầu cấp thiết.
Các chuyên gia của Dự án "Lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh" nhận định thị trường chỉ có thể phát triển ổn định nếu có hệ thống tiêu chuẩn rõ ràng cho sản phẩm nhựa tái chế. Việc ban hành các quy chuẩn nhận diện, như nhãn "tái chế", thông tin về loại nhựa, công nghệ sử dụng... sẽ giúp người dân dễ dàng nhận biết và đưa ra lựa chọn phù hợp.
Khoảng 1,8 triệu tấn chất thải nhựa mỗi năm
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 25,3 triệu tấn chất thải sinh hoạt, trong đó có khoảng 1,8 triệu tấn chất thải nhựa. Khối lượng này tạo áp lực rất lớn đối với hệ thống thu gom, phân loại và xử lý rác thải.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng chỉ ra 2 nguyên nhân chính là hạ tầng thu gom, phân loại còn thiếu đồng bộ và thói quen phân loại rác tại nguồn của người dân thay đổi chậm. Đây là những vấn đề cần được giải quyết căn bản trong thời gian tới.

Bình luận (0)