Cuối tháng 8-1945, tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thời khắc lịch sử
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang vốn là nhà của cụ Trịnh Phúc Lợi (hiệu tơ lụa Phúc Lợi), được xây theo lối cổ gồm 2 tầng. Sau khi được thừa kế ngôi nhà từ người cha, ông bà Trịnh Văn Bô đã sửa sang theo lối kiến trúc hiện đại gồm 4 tầng.
Nằm giữa khu buôn bán sầm uất, khách hàng ra vào nhộn nhịp, từ trên tầng 4 có thể quan sát động tĩnh cả một khu vực rộng lớn từ chợ Đồng Xuân đến ngã tư Hàng Đào, nhà số 48 Hàng Ngang rất phù hợp với hoạt động bí mật của Đảng. Hơn nữa, gia đình ông bà Trịnh Văn Bô là một gia đình yêu nước, đã được giác ngộ cách mạng từ lâu và trở thành một cơ sở tin cậy của Đảng trong nội thành Hà Nội. Vì vậy, Thành ủy Hà Nội chọn nơi đây làm nơi ở và làm việc của các đồng chí Trung ương trước Cách mạng Tháng Tám.
Theo sách "Hà Nội Danh thắng và Di tích" tập 2, trung tuần tháng 8-1945, mặc dù vừa trải qua trận ốm nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định cùng Trung ương nhanh chóng về Hà Nội để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa.
Ngày 21-8, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và nhiều đồng chí Trung ương Đảng đã về đến Hà Nội. Ngày 22-8, tại nhà số 48 Hàng Ngang, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng - đã chủ trì cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng để bàn công tác lớn về đối nội, đối ngoại và đón Bác Hồ về Hà Nội.
Ngày 23-8, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Phú Thượng. Ngày 25-8, Bác vào nội thành. Các đồng chí lãnh đạo Đảng đón Người về ở nhà số 48 Hàng Ngang. Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chân lên Hà Nội. Để bảo đảm bí mật, Bác được đưa vào theo cửa 35 Hàng Cân.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú cùng các đại biểu thực hiện nghi thức mở biển tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang - nơi Bác Hồ khởi thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Ảnh: NGUYỄN HOÀNG
Trong sách "Hà Nội Danh thắng và Di tích" tập 2, bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ ông Trịnh Văn Bô, kể: "Tôi nhớ lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà tôi. Người mặc rất giản dị, áo nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su "con hổ trắng", tay cầm can. Khi Người bước vào nhà, vợ chồng tôi ra đón và đưa Người lên tầng 3, nơi tôi đã chọn sẵn một buồng đủ tiện nghi để Người ở. Sau Người lại xuống tầng 2 ở luôn cùng các đồng chí mình và làm việc tại đó".
Tại tầng 2 của ngôi nhà, phòng ăn của gia đình trước đây được dùng làm phòng họp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đồng chí trong Thường vụ. Giữa phòng là chiếc bàn gỗ hình chữ nhật, 8 chiếc ghế tựa bọc nỉ xanh, phủ vải trắng. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng để chuẩn bị cho việc ra mắt Chính phủ lâm thời vào ngày 2-9-1945.
Căn phòng nhỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở khoảng 20 m2, đồ đạc đơn giản. Ở phía trong kê một chiếc bàn tròn, đường kính 1 m, một chiếc ghế bành có lưng tựa cao bọc vải trắng, góc bên đặt một chiếc đi-văng, một chiếc tủ gỗ màu cánh gián. Gần cửa là chiếc giường vải xếp để Bác nằm. Chính tại căn phòng nhỏ bé này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi thảo bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ đêm 28-8-1945, theo sự phân công của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tại chiếc bàn ăn trên tầng 2 của nhà số 48 Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí lực và tình cảm soạn thảo bản "Tuyên ngôn Độc lập". Bản thảo "Tuyên ngôn Độc lập" được Người hoàn thành trong một thời gian ngắn và được đưa ra Ban Thường vụ Trung ương đọc, góp ý.
Sáng 30-8, Người mời thiếu tá Patty, phụ trách bộ phận OSS của Mỹ, đến và đọc cho ông nghe đoạn mở đầu trong "Tuyên ngôn Độc lập"... Ông Patty đã giật mình khi nghe câu đầu tiên của bản "Tuyên ngôn Độc lập": "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Sau những suy ngẫm, trăn trở, ngày 31-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định bổ sung một số điểm vào bản Tuyên ngôn, hoàn chỉnh bản khai sinh của nước Việt Nam vừa giành được độc lập. Bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Chủ tịch Hồ Chí Minh dự thảo được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới.
Mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ nguyên của độc lập, tự do và hạnh phúc.
Bản "Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ là một văn kiện pháp lý quan trọng, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta mà còn là một áng văn bất hủ, kết tinh tinh thần yêu nước, khát vọng tự do và ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam.
Bản "Tuyên ngôn Độc lập" thể hiện khát vọng ngàn đời của người dân Việt Nam về một đất nước tự chủ, là lời khẳng định đanh thép trước toàn thế giới về quyền được sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.
GS-TS Phùng Hữu Phú - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội - cho rằng "Tuyên ngôn Độc lập" là văn kiện khẳng định tầm vóc lịch sử của cách mạng Việt Nam, một dân tộc đã kiên cường đấu tranh với vô vàn gian khổ, hy sinh để giành độc lập. Đây còn là văn kiện pháp lý thiêng liêng, mở đường cho thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, đi lên chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của nhân dân.
"Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa thời đại, đó là tuyên ngôn của dân tộc thuộc địa nửa phong kiến đã chiến đấu và chiến thắng, chứng minh khả năng giành độc lập của các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Theo PGS-TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, điểm đặc biệt của bản "Tuyên ngôn Độc lập" mà Bác Hồ đọc ngày 2-9-1945 là đã khẳng định quyền con người và quyền dân tộc cơ bản dựa trên những "Lẽ phải không ai chối cãi được" từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
TS Vũ Mạnh Hà, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, nhận định kể từ khi ra đời và được khẳng định trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945, tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã trở thành ngọn cờ tư tưởng lớn lao, dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt để bảo vệ và giữ vững chân lý ấy. "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945 không chỉ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ quyền quốc gia mà còn đặt nền tảng tư tưởng cho cả quá trình cách mạng lâu dài, bền bỉ và vô cùng anh dũng của dân tộc Việt Nam.
Chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1945 đã, đang và sẽ là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
Gắn biển công trình cho nhà số 48 Hàng Ngang
Ngày 18-8, tại di tích lịch sử Nhà số 48 Hàng Ngang (phường Hoàn Kiếm, TP Hà Nội), Thành ủy, UBND TP Hà Nội tổ chức gắn biển công trình kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám (19.8.1945-19.8.2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945-2.9.2025) cho dự án tu bổ di tích nhà số 48 Hàng Ngang.
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang là di tích đặc biệt quan trọng. Ngôi nhà đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1979.

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang - nơi Bác Hồ khởi thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Ảnh: HẢI ANH
Bình luận (0)