Cách đây ít lâu, hồ sơ xin cấp giấy phép lao động (GPLĐ) cho lao động kỹ thuật người nước ngoài do công ty của bà Phạm Thị Thu Hà (TP Hà Nội) nộp đã bị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH) TP Hà Nội từ chối, dù doanh nghiệp (DN) này đã nộp bản chứng nhận người lao động (NLĐ) có kinh nghiệm từ đủ 5 năm. Lý do bị từ chối là vì thiếu văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận theo quy định tại điểm b, khoản 5, điều 4 Nghị định 70/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2020/NĐ-CP về NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý NLĐ Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Cơ quan quản lý lao động hiểu sai?
Bà Hà cho biết theo quy định tại khoản 6 điều 3 Nghị định 152 thì lao động kỹ thuật là NLĐ nước ngoài thuộc một trong các trường hợp: Được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật hoặc chuyên ngành khác ít nhất 1 năm và làm việc ít nhất 3 năm trong chuyên ngành được đào tạo (điểm a); có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm công việc phù hợp với vị trí công việc mà NLĐ nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam (điểm b).
Khi Nghị định 70 ban hành chỉ sửa đổi nội dung tại điểm a nêu trên, còn điểm b thì không. Khi xin cấp GPLĐ cho lao động kỹ thuật người nước ngoài, công ty áp dụng đối tượng ở điểm b nên chỉ cần nộp bản chứng nhận kinh nghiệm là đủ. Việc nộp văn bằng, chứng chỉ, giấy chứng nhận chỉ áp dụng với đối tượng quy định ở điểm a. Hơn nữa, quy định cũng nêu chung chung, DN không rõ văn bằng, chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận là về nội dung gì để thực hiện cho đúng.
Công ty TNHH Ecco Việt Nam (tỉnh Bình Dương) thì chưa hiểu rõ quy định "kinh nghiệm làm công việc phù hợp với vị trí công việc mà NLĐ nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam". Với quy định này thì NLĐ buộc phải có kinh nghiệm làm việc tại các công ty có trụ sở ở nước ngoài hay có kinh nghiệm làm việc tại các DN nước ngoài đóng ở Việt Nam cũng được, chỉ cần kinh nghiệm đó phù hợp với vị trí công việc NLĐ dự kiến làm?
Giải đáp các vấn đề trên, Bộ LĐ-TB-XH cho hay theo quy định tại điểm b khoản 6 điều 3 và điểm b khoản 4 điều 9 Nghị định 152 được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 70, trường hợp người nước ngoài là chuyên gia, lao động kỹ thuật có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm công việc phù hợp với vị trí dự kiến làm tại Việt Nam thì phải có văn bản xác nhận của cơ quan, tổ chức, DN tại nước ngoài về số năm kinh nghiệm hoặc GPLĐ (hay xác nhận không thuộc diện cấp GPLĐ) đã được cấp; không yêu cầu phải có văn bằng, chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận về việc được đào tạo.
Bối rối
Trong thực tiễn tuyển dụng, quản lý lao động, DN còn gặp những vướng mắc liên quan đến việc cấp GPLĐ cho NLĐ nước ngoài.
Đại diện Công ty TNHH Tsuchiya TSCO (TP Hà Nội) đặt tình huống trong Điều lệ của DN quy định cơ cấu quản lý gồm có: Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Nếu công ty làm thủ tục xin cấp GPLĐ cho người nước ngoài với vị trí giám đốc điều hành (chức danh không có trong điều lệ) thì có được cơ quan chức năng chấp nhận không?
Bộ LĐ-TB-XH giải thích theo quy định hiện hành thì văn bản, giấy tờ chứng minh là giám đốc điều hành gồm 3 loại: Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động của cơ quan, tổ chức, DN; giấy chứng nhận đăng ký DN, giấy chứng nhận thành lập, quyết định thành lập hoặc giấy tờ khác có giá trị pháp lý tương đương; nghị quyết hoặc quyết định bổ nhiệm của cơ quan, tổ chức, DN. Như vậy, trường hợp điều lệ công ty không ghi rõ chức danh giám đốc điều hành thì chưa đủ cơ sở để được cấp GPLĐ cho NLĐ nước ngoài ở vị trí này.
Thắc mắc khác do một DN tại quận 1, TP HCM nêu ra là theo quy định tại Nghị định 152, trường hợp DN tuyển dụng NLĐ nước ngoài đã kết hôn với người Việt Nam thì không phải làm thủ tục xác nhận không thuộc diện cấp GPLĐ nhưng phải báo cáo với Bộ LĐ-TB-XH hoặc Sở LĐ-TB-XH nơi NLĐ nước ngoài dự kiến làm việc trước ít nhất 3 ngày, kể từ ngày dự kiến bắt đầu làm việc tại Việt Nam. Nhưng quy trình thực hiện báo cáo với bộ, sở thế nào thì không có quy định?
Theo Bộ LĐ-TB-XH, tại Nghị định 70 và Nghị định 152 quy định trường hợp NLĐ nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam thì phải thực hiện xác nhận không thuộc diện cấp GPLĐ theo quy định tại điều 8 Nghị định 152.
Không đóng BHXH bắt buộc
Giải đáp cho câu hỏi NLĐ nước ngoài làm việc theo diện di chuyển trong nội bộ DN, vừa hưởng lương tại công ty mẹ vừa ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) và hưởng lương với DN ở Việt Nam thì có thuộc diện đóng BHXH, Bộ LĐ-TB-XH cho biết căn cứ Nghị định 143/2018/NĐ-CP ngày 15-10-2018 thì NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam có GPLĐ, chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 1 năm trở lên thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Như vậy, NLĐ nước ngoài di chuyển trong nội bộ DN không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Bình luận (0)