Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước - Bộ Nội vụ, mỗi năm Việt Nam đưa được 120.000 - 140.000 người lao động (NLĐ) đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Dù vậy, nhiều doanh nghiệp (DN) phái cử thừa nhận nguồn cung không còn dồi dào như trước.
Ngày càng khó tuyển
Ông Nguyễn Văn Dịnh, Giám đốc một DN xuất khẩu lao động (XKLĐ) tại TP HCM chuyên thị trường Nhật Bản, cho biết trước đây, chỉ cần thông báo tuyển dụng là có hàng trăm hồ sơ nộp về. Nay, nhiều đợt tuyển chỉ đạt 20% - 40% chỉ tiêu, thậm chí có đơn hàng không ai ứng tuyển.
"Trong nước, làm việc tại KCN đã có thu nhập 10 - 15 triệu đồng/tháng, kèm bảo hiểm, phúc lợi đầy đủ. Nếu đi nước ngoài, NLĐ phải bỏ hàng chục triệu đồng, chấp nhận xa nhà và nhiều rủi ro" - ông Dịnh lý giải.
Tại tỉnh Hà Tĩnh, ông Lê Quốc Dũng, Trưởng Phòng Tuyển sinh của một DN XKLĐ, cho hay trước đây, NLĐ chuộng thị trường Đài Loan (Trung Quốc). Nhưng 2 năm nay, dù lương tăng, chi phí thấp, nhiều người vẫn không mặn mà. Đơn hàng phổ thông lương khoảng 25 triệu đồng/tháng cũng ít người quan tâm.
"Chúng tôi chuyển sang đào tạo điều dưỡng viên đi Đức. Nhưng để có một ứng viên đạt chuẩn, chi phí đào tạo tiếng và nghề lên đến 100 - 150 triệu đồng. Nhiều NLĐ bỏ cuộc giữa chừng, gây thiệt hại lớn cho DN. Rõ ràng, cách làm cũ đã không còn phù hợp" - ông Dũng nhận xét.
Bà Nguyễn Thị Mai Thủy, Điều phối viên quốc gia Chương trình Lao động di cư của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam, đánh giá không chỉ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), những thị trường từng "nóng" nhất như Trung Đông hay châu Âu cũng khó tuyển đủ lao động. Xu hướng hiện nay là NLĐ phổ thông ưu tiên làm việc gần nhà, ổn định lâu dài, thay vì mạo hiểm đi xa.
Trong khi đó, cả nước có hơn 500 DN được cấp phép phái cử, khiến cung vượt cầu, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các nước tiếp nhận cũng siết chặt điều kiện: Nhật Bản chuyển sang chương trình "kỹ năng đặc định", đòi hỏi chứng chỉ nghề và trình độ tiếng; Hàn Quốc tăng cường kiểm soát để hạn chế lao động bỏ trốn.
"Những ngành giản đơn như xây dựng, nông nghiệp không còn nhiều dư địa. Xu hướng quốc tế là thu hút lao động kỹ năng, có trình độ và ngoại ngữ. Nếu không chuyển hướng, DN XKLĐ dễ bị đào thải" - bà Thủy nhấn mạnh.

Công ty CP Sài Gòn Thiên Vương chú trọng việc đào tạo kỹ năng cho người lao động trước khi phái cử
Tái định vị chất lượng
Nhằm duy trì hoạt động, nhiều DN mở rộng sang Đức, Romania, Ba Lan trong các lĩnh vực điều dưỡng, công nghệ, xây dựng. Tuy nhiên, yêu cầu khắt khe và chi phí đào tạo lớn khiến nguồn cung khan hiếm. Không ít DN phải hỗ trợ vay vốn, giảm phí dịch vụ để giữ chân lao động, song đây chỉ là giải pháp tạm thời.
Theo các chuyên gia, XKLĐ thoái trào là xu hướng khó đảo ngược khi kinh tế trong nước ngày càng tạo thêm nhiều việc làm. Dù vậy, ngành phái cử vẫn có thể tồn tại nếu đi theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao.
Bà Nguyễn Thị Mai Thủy cho rằng DN XKLĐ cần tránh chạy theo số lượng, thay vào đó phải nâng chất lượng đào tạo. Nhà nước cần hỗ trợ tài chính cho lao động sang thị trường kỹ năng cao, đồng thời mở rộng ký kết các hiệp định song phương.
"Nếu chỉ phái cử lao động phổ thông, Việt Nam sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt từ Philippines, Indonesia, Myanmar. Muốn nâng vị thế, XKLĐ phải được coi là chiến lược đào tạo và đưa những NLĐ có kỹ năng cao ra nước ngoài làm việc, gắn với nhu cầu quốc tế" - bà Thủy phân tích.
Một vấn đề khác là hàng chục ngàn NLĐ trở về mỗi năm sau khi hết hạn hợp đồng nhưng chưa tìm được việc phù hợp, gây lãng phí kỹ năng. Nếu có cơ chế tiếp nhận, họ sẽ trở thành nguồn nhân lực quý cho công nghiệp trong nước. Theo bà Thủy, XKLĐ cần được nhìn nhận như một trụ cột trong chiến lược nhân lực quốc gia, với sự kết nối từ đào tạo - phái cử - tái hòa nhập.
Ở góc độ quản lý, lãnh đạo Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết cơ quan này đang nghiên cứu chính sách các quốc gia tiếp nhận để tham mưu điều chỉnh, đồng thời đề xuất sửa luật, phân cấp quản lý cho địa phương. Cục cũng phối hợp với các bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển hoạt động đưa lao động Việt Nam ra nước ngoài, phù hợp xu thế dịch chuyển toàn cầu.
Thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán, ký kết hợp tác với các thị trường có thu nhập tốt như Israel, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Nga…, đồng thời mở rộng sang châu Âu với ngành nghề ổn định, thu nhập cao để giảm phụ thuộc vào vài thị trường lớn. Song song đó, Cục Quản lý lao động ngoài nước thúc đẩy liên kết đào tạo nghề, ngoại ngữ, pháp luật với DN XKLĐ, giúp NLĐ có kỹ năng cần thiết, nhanh chóng hòa nhập quốc tế.
Rõ ràng, XKLĐ không còn là cuộc chạy đua về số lượng. Để tồn tại và phát triển, ngành phái cử phải tái định vị theo hướng chất lượng, bền vững - vừa đáp ứng nhu cầu quốc tế vừa đóng góp vào chiến lược nhân lực quốc gia.
Hướng tới thị trường kỹ năng cao
Bà Trần Thị Minh Thu, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Bách Nghệ Toàn Cầu (Glo-Tech), cho rằng muốn vượt qua giai đoạn thoái trào, DN phái cử lao động phải chuyển từ "lượng" sang "chất", đầu tư đào tạo nghề, ngoại ngữ và hướng tới thị trường kỹ năng cao.
Song song đó, cần giảm rào cản chi phí, liên kết với trường nghề - địa phương để chủ động nguồn nhân lực, đồng thời hỗ trợ NLĐ hồi hương tái hòa nhập. Chỉ khi xem XKLĐ là chiến lược nhân lực quốc gia, DN mới tạo dựng được lợi thế cạnh tranh bền vững.
Bình luận (0)