- Ông TRẦN VĂN TRIỀU, Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật - LĐLĐ TP HCM, trả lời: Điều 11 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định khi HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ mà 2 bên không giao kết HĐLĐ mới thì thực hiện chấm dứt HĐLĐ. Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ kể từ khi bắt đầu làm việc theo HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu cho đến lúc chấm dứt thực hiện như sau: Nếu quyền, lợi ích của mỗi bên trong HĐLĐ không thấp hơn quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể đang áp dụng thì thực hiện theo nội dung HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu. Nếu HĐLĐ có nội dung về quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mỗi bên vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến phần nội dung khác của HĐLĐ thì thực hiện theo khoản 2, điều 9 Nghị định 145.
Thời gian NLĐ làm việc theo HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu được tính là thời gian làm việc của NLĐ cho người sử dụng lao động (NSDLĐ) để làm căn cứ thực hiện chế độ theo quy định của pháp luật về lao động. Bên cạnh đó, NSDLĐ phải trả cho NLĐ một khoản tiền do 2 bên thỏa thuận, cứ mỗi năm làm việc ít nhất bằng 1 tháng lương tối thiểu vùng tại thời điểm quyết định tuyên bố HĐLĐ vô hiệu. Thời gian làm việc của NLĐ để tính trợ cấp là thời gian làm việc thực tế theo HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu (xác định theo điểm a, khoản 3, điều 8 Nghị định 145).
Ngoài ra, NSDLĐ phải giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc đối với các HĐLĐ trước HĐLĐ bị tuyên bố vô hiệu (nếu có). Trường hợp các vấn đề khác liên quan việc xử lý HĐLĐ vô hiệu toàn bộ do nội dung HĐLĐ vi phạm pháp luật, hoặc công việc đã giao kết trong HĐLĐ là công việc mà pháp luật cấm, thì thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự.
Bình luận (0)